Việt Nam đã giải ngân nguồn vốn ODA như thế nào?

Bấm vào đây để nghe cuộc trao đổi này

Rightclick to download this audio

Trong kế hoạch phát triển kinh tế năm năm 2001-2005, Việt Nam dự trù cần phải đạt được kế hoạch huy động và giải ngân 10 tỷ đô la tiền vốn viện trợ phát triển chính thức ODA. Đến nay việc thực hiện kế hoạch 5 năm này đã đuợc hơn một nửa, phóng viên Đỗ Hiếu của đài chúng tôi đã liên lạc với tiến sỹ kinh tế Lê Mạnh Hùng và hỏi về việc thực hiện kế hoạch này đối với viện trợ ODA thì được ông cho biết như sau:

Về vấn đề vốn hỗ trợ chính thức gọi tắt là ODA của Việt Nam đó, thì trong những năm qua, số lượng tiền vốn này đuợc các nước viện trợ cam kết rất là lạc quan và có thể nói là vượt quá chỉ tiêu, tỷ dụ như là trong năm 2002, số vốn hứa hẹn là hơn hai tỷ rưởi đô la cao hơn năm 2001 đến 5% và đến năm 2003, lên tới trên hai tỷ tám trăm triệu đô la, tức là tăng 13% so với năm 2002.

Thế nhưng đối với vốn viện trợ phát triển này, cam kết là một chuyện nhưng vấn đề quan trọng hơn là phải sử dụng, tức là nói đến vấn đề giải ngân, mà vấn đề giải ngân này thì Việt Nam hiện vẫn gặp một số khó khăn, thành ra cái mục tiêu mà chánh phủ Việt Nam đề ra là giải ngân 10 tỷ đô la trong vòng kế hoạch 5 năm này, thì có nhiều triển vọng chưa chắc đã đạt được.

Nếu mà xét về những số liệu thống kê, mà chính phủ Việt Nam cho thấy thì việc giải ngân nguồn vốn ODA luôn luôn là thấp hơn so với cái mức mà nhà nước đặt ra, thí dụ như là năm 2001, mới giải ngân được có một tỷ sáu mươi lăm triệu đô la, năm 2002 giải ngân được một tỷ 800 trăm triệu đô la và năm 2003 thì xuống chỉ còn một tỷ 55 triệu đô la. Thành ra nếu mà Việt Nam muốn đạt đuợc cái mức mà kế hoạch đề ra thì phải thực hiện giải ngân vào khoản hai tỷ bảy trăm triệu đô la. Trong hai năm 2004, 2005, đây là một điều sẽ rất khó mà thực hiện được.

Đỗ Hiếu: Thưa ông, ODA tức là viện trợ chính thức ở Việt Nam thường được nhà nước sử dụng vào các mục đích gì?

Tiến Sĩ Mạnh Hùng: Vốn viện trợ chính thức này thường được nhà nước Việt Nam sử dụng trong việc xây dựng và tái thiết hạ tầng cơ sở kinh tế, tỷ dụ như là đuờng xá, nhà máy điện. Năm vừa qua chẵn hạn, vốn ODA đã giúp Việt Nam xây dựng mới khoảng 3700 cây số đường quốc lộ. Vốn ODA cũng là vốn chính tạo ra công việc làm trong ngành điện.

Nguồn vốn ODA trong bốn năm trước đây, tức là từ 1996 đến 2000 chiếm đến 40% tổng số vốn đầu tư của nhà nước vào ngành điện .

Ngoài ra ODA tài trợ bởi các định chế quốc tế như Ngân Hàng thế giới, còn có tính cách tạo ra hạ tầng cơ sở về xã hội tức là giúp về việc xóa đói giảm nghèo, mở mang thêm hoạt động tại nông thôn thì đó là những điều quan trọng nhất mà vốn ODA được sử dụng.

Đỗ Hiếu: Xin ông có thêm nói thêm về vai trò của vốn viện trợ ODA ra sao? Ngoài ra chúng tôi cũng xin ông trình bày về sự khác biệt giữa ODA với FDI, tức là đầu tư trực tiếp của nước ngoài?

Tiến Sĩ Mạnh Hùng: Vốn đầu tư trực tiếp của các công ty đầu tư có tính cách thương mại tức là họ đầu tư vào những dự án tạo ra lợi nhuận cho họ, tỷ dụ như là hãng Sony thành lập một nhà máy lắp ráp vô tuyền truyền hình tại Việt Nam, thì đó là vốn đầu tư do chính Sony tạo ra , nằm trong FDI.

Nhưng để có thể có được nhà máy đó, thì chánh phủ cần phải cung cấp một số những dịch vụ, tỷ dụ như muốn thành lập nhà máy thì cần có đường xá, cần có điện, phải có những hạ tầng cơ sở và những hạ tầng cơ sở đó các công ty đầu tư bình thường sẽ không muốn đầu tư vào, vì đầu tư vào thì họ không thu được tiền lời ngay mà hầu như là chánh phủ phải bỏ tiền ra , và cái việc đầu tư vào những chuyện đó chính là việc sử dụng những tài nguyên của viện trợ của các nước ngoài cung cấp hoặc của những định chế quốc tế tài trợ, tỷ dụ như là để có thể phát triển được tỉnh Quảng Ninh thì nhà nước đã dùng vốn ODA để nâng cấp một số hải cảng , một số những đường xá thì những cái đó sẽ mở đầu cho những phương tiện để cho những công ty có thể đầu tư vào những khách sạn ở Vịnh Hạ Long chẵn hạn. Tôi lấy đó là một thí dụ cho thấy sự khác biệt giữa vốn ODA và vốn FDI.

Đỗ Hiếu: Chúng tôi xin cám ơn tiến sĩ Lê Mạnh Hùng.