Chương trình tín chỉ cho các trường đại học tại Việt Nam

Theo ấn định của Bộ GD-ĐT Việt Nam, bắt đầu từ niên khóa 2009-2010, tất cả các trường đại học phải chuyển sang hình thức đào tạo học chế tín chỉ.

0:00 / 0:00

Đây là một trong bảy bước được đặt ra để đổi mới giáo dục đại học giai đoạn 2006-2020 của Bộ. Sau một năm đi vào thực hành, liệu những gì đang xảy ra cho ngành giáo dục tại Việt Nam ảnh hưởng như thế nào đến đời sống sinh viên?

Thay đổi theo thế giới

Chương trình đại học truyền thống của Việt Nam đang từng bước thay đổi để theo kịp nhu cầu của thế giới. Do vậy Bộ GD-ĐT đã ra bản kế hoạch 7 bước trong lộ trình đổi mới giáo dục và đào tạo theo học chế tín chỉ được ưu tiên hàng đầu.

Bắt đầu từ niên khóa 2009-2010, tất cả các trường trên toàn quốc đổi từ cách học truyền thống qua học chế tín chỉ.

Từ những ngày đầu, báo chí trong nước phản ảnh sự không đồng thuận với lối điều hành của Bộ GD-ĐT, cho rằng sự thay đổi này gây khó khăn cho sinh viên vì ngành giáo dục của Việt Nam còn nhiều bất cập.

Sinh viên ở Việt Nam chưa quen với cách học tín chỉ bởi vì thí dụ, có nhiều môn không bắt buộc, thi được 10 điểm hay 5 điểm, y chang nhau không có khác biệt gì mà chỉ cần 4 điểm thì rớt.

SV Thiên Ân

Ngày đầu tiên bước vào giảng đường đại học các tân sinh viên được giải thích sơ về học chế tín chỉ như sau: môn học được quy định một số tín chỉ nhất định, một tín chỉ thì bao gồm nhiều học phần, trong một học phần có 15 học trình và mỗi học trình thường có khoảng 3 tiết lên lớp. Khi mới nghe qua, nhiều tân sinh viên khá ngỡ ngàng vì không biết bắt đầu từ đâu. Họ phải về nhà đọc lại các tài liệu để tìm hiểu thêm.

Một số khó khăn mà học chế tín chỉ gây ra cho sinh viên là chương trình này hoàn toàn khác so với cách học họ đã quen thuộc trong 12 năm ngồi trên ghế trường phổ thông.

Học tín chỉ có nghĩa là giờ tham dự lớp ngắn hơn và các sinh viên phải tự học nhiều hơn. Dù đã có thay đổi nhưng chương trình sắp lớp vẫn tùy thuộc nhiều vào các trường thay vì sinh viên được tự do chọn lựa như các nước khác trên thế giới. Thêm vào đó, vấn đề thiếu giảng viên và cơ sở vật chất vẫn đang còn là việc nan giải.

Thiên Ân, tân sinh viên của trường đại học Lao Động Xã Hội cho biết suy nghĩ của em về chương trình mới này:

“Học tín chỉ thì chia ra có bao nhiêu học phần, một học phần có bao nhiêu học trình, một học trình thì bằng 15 tiết học trên lớp mà một tiết là 45 phút. Rồi thi học trình, thi học trình mà qua hết được rồi thì thi học phần mà thí dụ như một môn mà mình thi không được thì phải đóng tiền năm sau thi lại cái học phần đó nữa, nếu không thi lại mà không đủ học phần thì không thể thi tốt nghiệp đại học được. Chương trình đang học bình thường đổi qua học tín chỉ thì rất rất nhiều người không đồng tình. Thứ nhất là học sinh, sinh viên ở Việt Nam chưa quen với cách học tín chỉ bởi vì thí dụ, có nhiều môn không bắt buộc, thi được 10 điểm hay 5 điểm, y chang nhau không có khác biệt gì mà chỉ cần 4 điểm thì rớt. Ví dụ như thi được 5 điểm là điểm trung bình thì sẽ được cấp một tín chỉ và khi đổi trường, chương trình bắt học lại, mình đưa ra tín chỉ nói mình đã học rồi thì sẽ không phải học lại nữa nhưng trên tín chỉ đó lại không ghi thành tích thật sự.”

Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. RFA PHOTO / Tyler Chapman.
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. RFA PHOTO / Tyler Chapman.

Thiên Ân còn cho biết thêm hạ tầng cơ sở cũng như thư viện trường Ân còn yếu kém nên khi phải tự tìm tài liệu để học thêm, Ân gặp rất nhiều khó khăn. Thư viện chỉ mở cửa những lúc sinh viên có lớp và đóng cửa khi sinh viên tan học. Muốn tìm tài liệu bên ngoài thì tài liệu này không bán như những sách khác do theo chuyên môn của trường. Việc học tín chỉ quả là một việc khó nên sinh viên năm thứ nhất như Thiên Ân bỏ học rất nhiều.

Chương trình học vẫn như cũ

Thủy An, sinh viên năm thứ 3 của trường đai học Tôn Đức Thắng cho biết hiện cô đang học chương trình bán tín chỉ, có nghĩa là các môn và cách học đều giống nhau như khi tín điểm ra trường dựa trên tín chỉ. Thủy An cho biết:

“Tại vì khóa của con là nó đang giao thời giữa chưa có tín chỉ và khóa sau con là tín chỉ. Con học thì học theo môn tín bằng tín chỉ nhưng thi thì không thể thi tín chỉ, có nghĩa là học là không có đăng ký môn, học theo xếp lớp nhưng cái môn được tín bằng chỉ. Cái tín chỉ nó chỉ khác nhau là cái môn đó mình được đăng ký, ví dụ như là trong khóa học đó có môn nghe tiếng Anh, môn nói tiếng Anh, môn viết tiếng Anh mà nó có mở 3 lớp đi thì mình thấy môn nào, lớp nào mà phù hợp với mình thì mình sắp xếp thời gian được thì mình đăng ký cái môn đó trước, mình học môn đó trước còn của con thì nhà trường đã sắp xếp thời khóa biểu cho mình sẵn rồi, mình chỉ cần học theo thôi chứ mình không cần đăng ký nữa, nó chỉ khác nhau cái đó thôi chứ còn chương trình đào tạo và chương trình học thì nó vẫn như nhau.”

Cái dạng tín chỉ như vậy Tôi thấy là nó xác định rõ môn nào cần thiết, nó có lợi cho nhà trường, giáo viên về mặt phân bố môn học, sinh viên có thể phân bố thời gian hợp lý.

BS Nguyễn Duy Anh

Những vấn đề các sinh viên gặp phải được giảng viên đại học Bách Khoa TP HCM, bác sĩ Nguyễn Duy Anh cho là chỉ nhất thời và với sự cải cách này, ngành giáo dục Việt Nam sẽ đi cùng dòng chảy của thế giới, trong tương lai, chương trình học của Việt Nam sẽ tương đương với những trường quốc tế của các quốc gia khác.

Bác sĩ Nguyễn Duy Anh chia sẻ:

“Cái dạng tín chỉ như vậy tôi thấy là nó xác định rõ môn nào cần thiết. Thứ nhất là nó có lợi cho nhà trường, giáo viên về mặt phân bố môn học. Về phía sinh viên thì họ có thể phân bố thời gian một cách hợp lý hơn cho các môn học của họ. Nếu muốn so sánh với nước ngoài thì tùy vào trường. Có trường sắp xếp được như ở nước ngoài nhưng vẫn còn rất hiếm và chỉ sắp xếp những ngành quan trọng nhưng đối với những ngành khác thì lương học và lượng giảng dạy nó không giống như ở nước ngoài. Theo tôi thì nếu mà mình cứ đi theo dạng tín chỉ này thì càng về lâu, lượng giảng viên đào tạo càng nhiều thì sẽ có lợi…”

Trong bối cảnh hiện tại, sinh viên và phụ huynh vẫn chưa nhận thấy được lợi ích của việc thay đổi cách dạy-học cũ thành học chế tín chỉ nhưng hy vọng khi kế hoạch này phát triển đồng loạt và toàn quốc, chương trình giáo dục của Việt Nam sẽ ngày càng tiến gần hơn để xếp ngang hàng cùng thế giới.

Các học sinh nếu cố gắng hoàn thiện chương trình được đưa ra và tự huấn luyện mình để có thể thích nghi với những thay đổi trong cách giáo dục thì khi họ bước chân ra nước ngoài để du học hay tham gia một chương trình trao đổi sinh viên nào đó thì họ cũng dễ thích nghi hơn.

Theo dòng thời sự: