Nguyễn An, phóng viên đài RFA
Hôm nay kỷ niệm bốn năm ngày trung tướng Trần Độ qua đời. Ông mất vào lúc 2 giờ 15 chiều ngày 9 tháng tám năm 2002 tại Hà nội, và được hoả táng lúc 1 giờ trưa ngày 14.
Con người Trần Độ
Trần Độ là một con ngừơi dũng cảm và có lòng. Là người theo đảng cộng sản từ năm 16 tuổi, gắn bó với đảng trong từng hoạt động, từng chiến dịch, nhưng sau 59 năm, ông lại bị khai trừ khỏi đảng chỉ vì muốn đảng tốt hơn.
Sống trong đảng từng ấy năm, ông hiểu rõ đến ngọn nguồn cái sức mạnh ghê gớm và tàn nhẫn của guồng máy đảng, nhưng ông vẫn mạnh dạn lên tiếng nói lên điều mà ông nhận thấy bằng trí tuệ và trái tim của mình, vốn là điều tuyệt đối cấm kỵ tại bất cứ nơi nào đảng có mặt.
Nhưng chính vì nói lên được những tiếng nói như thế nên ông trở thành một trong những người tiên phong trên con đừơng dân chủ cho đất nứơc mặc dù bản thân ông bị vùi dập cho đến khi trở về với cát bụi.
Sinh năm 1924 tại làng Thư Điền, huyện Tiền Hải tỉnh Thái bình trong một gia đình nho giáo trứơc khi thân phụ trở thành thư ký ở toà thống sứ Bắc kỳ.
Ông bắt đầu tham gia kháng chiến chống Pháp từ năm 1939, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1940, bị Pháp bắt, kết án 15 năm tù và đầy đi Sơn La vào năm 1941. Ba năm sau ông vượt ngục và từ đó hoạt động trong nhiều lãnh vực mà ở lãnh vực nào cũng là người lãnh đạo.
Trong quân đội, ông là uỷ viên ban quân sự cách mạng thủ đô Hà nội từ năm 1946, rồi phó chính uỷ khu 2 Hà nội, chính uỷ trung đoàn 209, rồi quyền chính uỷ đại đoàn 312. Năm 1955, ông đựơc phong thiếu tướng, chính uỷ quân khu hữu ngạn sông Hồng đến năm 1964 thì trở thành chính uỷ, phó bí thư quân uỷ quân giải phóng miền Nam.
Những thăng trầm
Hoà bình lập lại, ông là phó trưởng ban tuyên huấn trung ương, thứ trưởng bộ Văn Hoá Thông Tin rồi Trưởng ban Văn hoá văn nghệ trung ương cho đến năm 1990. Ông là uỷ viên ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Việt Nam các khoá 3, 4, 5 và 6, đại biểu quốc hội các khoá 7 và 8, chủ nhiệm uỷ ban văn hoá giáo dục và phó chủ tịch quốc hội.
Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế chấp nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng nhằng, nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi cũng không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một phương thức độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.
Đến khi phong trào đổi mới xuất hiện vào năm 1986, ông là một trong những người cổ vũ mạnh nhất, và cũng là nhân vật chính trong việc soạn thảo nghị quyết 5 về văn hoá văn nghệ, thừơng đựơc gọi là nghị quyết cởi trói, tạo điều kiện xuất hiện cho dòng văn học phản kháng ở trong nước.
Khi đảng Cộng sản Việt Nam thay đổi chính sách và xiết chặt trở lại sau sự sụp đổ dây chuyền của các chế độ Cộng sản đông âu cuối năm 1989, ông bị thất sủng.
Trăn trở với vận nước
Sau mấy năm nghiền ngẫm về thành quả mà đảng Cộng sản đem lại cho đất nứơc và dân tộc, đầu tháng giêng năm 1995, ông viết một bức thư gửi cho Tổng bí thư đảng lúc đó là ông Đỗ Mười, nêu ra vấn đề mà ông cho là căn cốt và cơ bản. Đó là mối liên quan giữa đảng và chính quyền.
Ông cho rằng đảng phải chọn lựa một trong hai cách điều hành đất nứơc: "Đảng cầm quyền hay đảng lãnh đạo. Đảng cầm quyền đồng nghĩa với đảng toàn trị, đảng điều khiển sai bảo nhà nứơc, còn đảng lãnh đạo thì phải có một nhà nứơc dân chủ pháp quyền, một nhà nứơc do dân, vì dân và của dân, như điều 112 của hiến pháp năm 1992 đã nói." Trong tinh thần đó, ông hô hào phải có sự cải cách cơ bản chế độ bầu cử và ứng cử để bảo đảm chọn đựơc các nhân tài thực sự cho đất nước.
Lá thư của ông không được trả lời, và đảng Cộng sản tiếp tục theo đường lối cũ. Ông tiếp tục viết nhiều bài yêu cầu đảng trả lại tự do dân chủ cho người dân, phê bình đường lối lãnh đạo của Đảng từ khi hoà bình lập lại là sai lầm và chỉ đưa dân chúng đến đói khổ, đất nứơc đến điêu tàn tụt hậu. Kết quả là đầu năm 1999, ông bị khai trừ khỏi đảng sau 59 năm theo đảng trên mọi chặng đường và trong mọi hoạt động và từng đựơc ban thửơng những huân chương cao quý nhất. Trong bức thư viết vào tháng 7 năm đó, ông tuyên bố:
“Tôi là đảng viên bị khai trừ. Tôi bị khai trừ là phải. Nếu không khai trừ tôi thì có lúc tôi phải xin ra khỏi cái đảng này. Tôi không thế chấp nhận và thừa nhận cái đường lối nhiều mâu thuẫn nửa vời, lằng nhằng, nặng chất giáo điều, bảo thủ, khó cho đất nước phát triển. Tôi cũng không thể chấp nhận phương thức lãnh đạo của đảng. Đó là một phương thức độc tôn, toàn trị chuyên chế, phản dân chủ.”
Khát vọng dân chủ
Đó là một trong những phát súng thần công đầu tiên của khát vọng dân chủ bắn thẳng vào pháo đài của đảng Cộng Sản bởi một con ngừơi đã cống hiến cho đảng gần hết cuộc đời của mình.
Một tập họp bài viết quan trọng của ông Trần Độ là tập “Nhật ký Rồng và Rắn,” viết vào thời gian cuối năm Canh Thìn tức 2000 và đầu năm Tân Tỵ tức 2001, chỉ hơn một năm trứơc khi ông qua đời. Cuốn sách này đựơc chính tác giả gọi là máu và nứơc mắt của ông trong những ngày cuối đời, từng bị công an tịch thu, và dù ông viết thư nhiều lần để đòi lại, những người đồng chí cũ của ông lúc đó đang ở các vị trí cao nhất nứơc vẫn làm ngơ.
Trong bài viết ngày 3 tháng 12 năm 2000, ông nêu rõ bốn thứ của một xã hội đời thường, đựơc ví như bốn bánh xe của một cỗ xe, đó là:
1. Một xã hội công dân 2. Một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh chứ không định hướng gì lôi thôi. 3. Một nhà nứơc pháp quyền (và) 4. Một nền dân chủ đầy đủ. Ông nhấn mạnh rằng bộ máy quản lý xã hội ấy là một bộ máy dân chủ.
Nói dân chủ là thì cứ phải dân chủ đã, không phải chưa nói đến dân chủ đã đề phòng “dân chủ quá trớn”, đề phòng “lợi dụng dân chủ”.
Ở đoạn sau, ông viết:
“Cái điều mà chủ nghĩa Mác, cộng sản hay xã hội chủ nghĩa tưởng rằng nhờ có nó sẽ có một bộ máy nhà nứơc bảo đảm đựơc mọi mặt nhu cầu đời sống của mọi người chỉ là một ảo tưởng hão huyền. Thế mà đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng. Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.”
Nhận định về đảng CSVN
Trong bài viết đề ngày 7 tháng 12 cùng năm, khi nói về sự chuyên chính tư tưởng, ông Trần Độ tuyên bố:
Đảng Cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng. Nhân dân cần đựoc tự mình làm chủ cuộc đời của mình, không cần một lý thuyết, một chủ nghĩa nào cả.
Nền chuyên chính vô sản này làm tê liệt toàn bộ đời sống tinh thần của một dân tộc, làm tê liệt sự hoạt động tinh thần của nhiều thế hệ, ra sức nô dịch toàn bộ tinh thần cuả nhiều thế hệ, làm nhiều thế hệ con người trở thành những con rối chỉ biết nhai như vẹt các nguyên lý bảo thủ giáo điều……… Nó đang làm hại cả một nòi giống.”
Trong bài viết đề ngày 24 tháng 12, ông Trần Độ nói, "thực chất là chế độ thì rất dã man, cho nên phải dùng nhiều thủ đoạn để lừa bịp nhân dân," và ông liệt kê ra một số thủ đoạn tiêu biểu bao gồm:
Thứ nhất là, thần thánh hoá, thiêng liêng hoá đảng, cấp uỷ và các nghị quyết, mà điều vô lý nhất là bắt toàn dân phải học nghị quyết của đảng……Không ai, kể cả báo chí, đựơc quyền nhận xét phê phán phân tích các nghị quyết cả. Đã là nghị quyết thì chỉ có đúng và tài tình, là rất thiêng liêng.
Thứ hai là khuyến khích và bồi bổ tệ nạn sùng bái cá nhân, là tệ nạn đã bị lên án nặng nề trong phong trào cộng sản thế giới. Bao giờ ý kiến của bí thư, uỷ viên thường vụ và cấp uỷ cũng là quan trọng, là thiêng liêng, là chân lý.”
Một con người quả cảm
Những nhận định thẳng thắn như thế chỉ có thể viết ra bởi một con ngừơi dũng cảm và có lòng. Trong bài viết đầu năm Tân Tỵ, ông Trần Độ đưa ra những điểm mà đảng Cộng sản phải thực hiện nếu muốn bứơc ra khỏi con đường mà ông cho là phản bội cách mạng:
“Thứ nhất là phải xác định cho đúng vị trí khiêm tốn của mình là một bộ phận của dân tộc, thực hiện lãnh đạo đất nứơc bằng cách tôn trọng tất cả mọi ngừơi.
Thứ hai là phải tôn trọng hiến pháp, thực thi đầy đủ các quyền dân chủ, đặc biệt là dân chủ về tự do ngôn luận và tự do bầu cử, nhân dân đựơc tự do làm ăn.
Thứ ba là phải để cho mọi tổ chức từ chính phủ, quốc hội, toà án cho đến mặt trận tổ quốc, đựơc độc lập quyết định những vấn đề và hoạt động của mình, để cho mọi công dân đựơc suy nghĩ độc lập
Thứ tư, cụ thể là phải sửa ngay luật báo chí, xuất bản, công nhận quyền có báo và xuất bản tư nhân.”
Trên đây là trích dẫn một số bài viết của ông Trần Độ trong nhật ký Rồng và Rắn. Những nhận xét ấy mặc dù cực kỳ nghiêm khắc, nhưng vẫn mang nặng ân tình; mặc dù nêu lên những điều thật khó tin, nhưng hoàn toàn sát với thực tế, bởi tác giả của nó từng theo đảng trong suốt 59 năm và dù bị hắt hủi, vẫn tha thiết với những lý tửơng và những đồng chí của thời thanh xuân.
Ông đã đứng về phía nhân dân để nói lên những yêu cầu mặc dù đơn giản, và hợp lý mà chưa hề đựơc đáp ứng. Nhưng cũng vì thế mà có những người khác tiếp bứơc ông trên con đường dân chủ hoá đất nứơc. Con đừơng ấy dẫu có dài, nhưng đã đi thì ắt là có lúc đến.