Bài kỳ này là phần trình bày của ông Vũ Quốc Dụng về việc chính quyền Hà Nội phản ứng trước những góp ý của quốc tế về thành tích nhân quyền của Việt Nam.
Không chấp nhận ý kiến xây dựng
Gia Minh: Trong thời đại hội nhập hiện nay, các vị nguyên thủ Việt Nam đi đến nhiều nơi trên thế giới, và được báo giới nêu ra câu hỏi về tình hình vi phạm nhân quyền tại Việt Nam, vấn đề tù nhân lương tâm.Trước những câu hỏi đó thì các vị lãnh đạo chính quyền Hà Nội đều cho rằng Việt Nam có những chuẩn mực, luật lệ riêng và những người vi phạm đều bị trừng phạt, vậy ông có ý kiến ra sao trước những lập luận đó?
Ông Vũ Quốc Dụng: Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế quan niệm tù nhân chính trị là những người thực hiện nhân quyền của họ một cách bất bạo động mà bị tù tội. Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế hoạt động dựa trên Bản tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của Liên hiệp quốc, và chúng tôi công nhận tất cả các công ước quốc tế. Như vậy chúng tôi công nhận những người hoạt động trên tinh thần của công pháp quốc tế như vậy. Chúng tôi xem nhân quyền, nhân phẩm gắn liền với tính chất làm người. Một khi đã tôn trọng nhân phẩm thì phải tôn trọng những điều rất riêng của người khác cho dù mình không đồng ý với những cái riêng đó. Do đó chúng tôi gọi những người tù nhân chính trị là tù nhân lương tâm; họ làm theo tiếng gọi lương tâm cho dù biết rằng vì thế có thể họ phải bị đưa vào tù.
Một cách khác để nhận biết ai là tù nhân chính trị: đó là những người bị bắt bỏ tù chỉ vì chính kiến của họ khác với chính kiến của đảng cầm quyền trong một nước, và đảng đó đã dùng mọi thủ đoạn kể cả thủ đoạn phi pháp để bắt giam họ, họ không được hưởng quyền được đối xử bình đẳng.Các phiên tòa đối với họ cũng không công bằng như đối với các công dân khác. Trong tù họ cũng bị phân biệt đối xử. Theo cái nhìn đó thì tại Việt Nam có rất nhiều tù nhân chính trị. Không biết vì sao mà Việt Nam nhất định ‘cãi cùn’ là tại Việt Nam không có tù nhân chính trị, mặc dù trên thực tế chúng ta thấy rõ ràng có tù chính trị tại Việt Nam: các tòa án và báo chí Việt nam vẫn gọi là ‘án chính trị’; trong trại giam vẫn tách tù chính trị ra riêng; người tù chính trị bị đối xử theo qui chế khác tù thường phạm. Đơn cử, tù chính trị bị cáo buộc với bất cứ tội gì vẫn không được gặp thân nhân, luật sư trong thời gian bị tạm giam điều tra, tù chính trị bị đưa đi giam xa nhà, thư từ bị khám xét, không được gọi điện thoại về nhà …
Chúng tôi có danh sách khoảng 300 tù nhân chính trị tại Việt Nam, trong đó có 200 người Thượng.
Gia Minh: Khi đưa ra những bằng chứng như thế thì Việt Nam có thừa nhận không?
Ông Vũ Quốc Dụng: Tôi có cảm tưởng là Việt Nam đang ‘cải cùn’ về vấn đề tù chính trị; thì đó chỉ là vấn đề sỉ diện, vấn đề ngôn từ thôi. Vấn đề chính là quan điểm về nhân quyền của chính quyền Hà Nội. Việt Nam đang theo đuổi quan điểm nhân quyền hai mặt: mặt ngoài thì ra vẻ chấp nhận; nhưng mặt bên trong thì đang tấn công ngầm vào những quan điểm nhân quyền của thế giới. Việt Nam không chấp nhận những thuộc tính căn bản của nhân quyền, ví dụ như tính phổ quát. Phổ quát có nghĩa là bất cứ con người ở nơi nào cũng có những quyền như nhau không phân biệt người đó thuộc chủng tộc, màu da, nam hay nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, quan niệm, nguồn gốc, dân tộc, xã hội, tài sản, nguồn gốc, dòng dõi…Việt Nam không chấp nhận tính chất nhân quyền đó mà đòi thực hiện nhân quyền tùy theo điều kiện xã hội, kinh tế, lịch sử và chính trị. Việt Nam không chấp nhận thuộc tính bất khả phân chia của nhân quyền; tức không được phân chia ra những quyền nào muốn cho người dân được hưởng; ví dụ cho phép dân có quyền có niềm tin tôn giáo mà lại giới hạn quyền thực hiện niềm tin đó; hoặc nói dân có quyền tự do tư tưởng nhưng lại bắt bớ những người viết bài trên Internet..
Việt Nam cần phải xét lại quan niệm về nhân quyền mà chính quyền hiện dùng, xe có đúng với Công pháp quốc tế hay không, hay những quan niện mà các quốc gia khác trên thế giới thường dùng. Nếu không giải quyết vấn đề căn bản đó thì vẫn tiếp tục xảy ra chuyện Việt Nam nói không vi phạm nhân quyền, nhưng không ai trên thế giới có thể thông cảm cho Việt Nam được.
Tiến bộ trong kinh tế và tôn giáo
Gia Minh: Vậy việc đấu tranh cho những chuẩn chung đó giữa phía Việt Nam và các quốc gia cổ xúy cho nhân quyền cũng như các tổ chức như của ông thì ra sao?
Ông Vũ Quốc Dụng: Việt Nam trong những năm vừa qua cũng có một số tiến bộ, đặc biệt là quyền trong lĩnh vực kinh tế. Mặt này được quốc tế đánh giá nhiều lần là khá tốt. Trong lĩnh vực tự do tôn giáo thì Việt nam cũng có một số cải thiện, đặc biệt với Đạo Tin Lành. Những cải thiện này được đánh giá là sự hợp tác hiếm có giữa chính quyền Việt Nam và chính quyền các quốc gia khác, với các tổ chức Tin Lành, các tổ chức chuyên lo về quyền tự do tôn giáo ở ngoại quốc. Mặc dù còn có nhiều khó khăn nhưng hiện không còn bị đàn áp một cách dã man, tràn lan như xưa nữa. Những văn bản có giọng điệu thù nghịch với Đạo Tin Lành nay cũng bớt đi nhiều. Điều này cho thấy lo ngại trước đây của Việt Nam khi cho rằng Tin Lành là đạo của Mỹ, một phương tiện của diễn biến hòa bình, một đe dọa cho an ninh quốc gia là những điều không thực tế. Trong thực tế điều đó gây trở ngại hơn là giúp cho Việt Nam hội nhập vào thế giới.
Tuy vậy nhìn lại, thì vẫn còn tồn tại rất nhiều vấn đề: Việt Nam không giải quyết êm đẹp vấn đề tranh chấp tài sản với Giáo hội Công giáo, bất chấp sự có mặt của phái đoàn Liên hiệp Âu Châu trong việc hành hung các tăng ni tại Chùa Phước Huệ hồi giữa tháng 12 này.
Nhân quyền không đe dọa an ninh quốc gia
Hồi tháng 5 vừa qua nhân phiên họp báo cáo định kỳ của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc, Việt Nam đã bác bỏ 46 trong số 150 khuyến nghị của các quốc gia trên thế giới. Đa số liên quan đến các quyền dân sự và chính trị; cũng như liên quan đến việc xây dựng một chế độ thượng tôn pháp luật tại Việt Nam. Hà Nội cũng từ chối mời những quốc gia về nhân quyền của Liên hiệp quốc được thường trực đến khảo sát tình hình nhân quyền tại Việt Nam.
Trong năm qua hợp tác với quốc tế trong lĩnh vực nhân quyền có giảm bớt đi; đồng thời chính sách đàn áp lại cứng rắn hơn đối với những người trong nước. Đây là lĩnh vực mà trong năm tới quốc tế phải đối thoại với Việt Nam mạnh mẽ hơn nữa.
Gia Minh: Ngoài những biện pháp đã làm, thì những biện pháp mạnh mẽ đó cần phải làm như thế nào?
Ông Vũ Quốc Dụng: Chúng tôi chỉ xin phép nêu quan niện của Hiệp hội Nhân quyền Quốc tế, một số đề nghị mà chúng tôi muốn đề nghị phía Việt Nam thực hiện. Trước hết Việt Nam cần xét lại toàn bộ hệ thống về quan niệm nhân quyền của Việt Nam, điều chỉnh cho phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Muốn làm việc đó, chính quyền Việt Nam cần từ bỏ tư thế phòng thủ đối với các vấn đề nhân quyền, phải ngưng xem nhân quyền là cớ cho việc xâm phạm chủ quyền, hay là can thiệp vào nội bộ của nước tiềm ẩn nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ, phi chính trị hóa vấn đề nhân quyền, không xem vấn đề nhân quyền là an ninh quốc gia nữa. Ngược lại cần phải xem những đóng góp về nhân quyền như là những đề nghị xây dựng.
Tôi đã đi đến nhiều nước có trình độ phát triển kinh tế kém hơn Việt Nam,nhưng chính quyền ở đó có thái độ rất trân trọng đối với các phái đoàn nhân quyền. Họ tiếp thu và thực thi các góp ý về vấn đề nhân quyền, từ đó tiến rất nhanh vì gây được thiện cảm với cộng đồng thế giới. Nếu Việt Nam càng để có các phái đoàn nhân quyền thuộc Liên hiệp quốc, Liên hiệp Châu Âu, Hoa Kỳ, các tổ chức quốc tế đến thăm viếng, giám sát tình hình nhân quyền thì Việt Nam sẽ nhận được nhiều sự trợ giúp để cải thiện vấn đề nhân quyền hơn.
Một đề nghị cuối cùng của chúng tôi: Việt Nam cần nhanh chóng thay đổi các bộ luật trong nước cho phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia để tránh mâu thuẫn với luật quốc tế, đồng thời thúc đẩy cho việc tôn trọng nhân quyền tại Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế. Như thế sẽ giúp cho Việt Nam dễ hội nhập vào thế giới trong lĩnh vực nhân quyền hơn.
Gia Minh: Cám ơn Ông Vũ Quốc Dụng đã có những trình bày liên quan tình hình nhân quyền Việt Nam trong năm qua.