Phỏng vấn nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn về Ải Nam Quan (phần 3)

Trong số những vấn đề liên quan đến biên giới Việt-Trung thì Ải Nam Quan là nhạy cảm hàng đầu vì nó gắn liền với tâm tư, với tình cảm của con người, cũng như với lịch sử của đất nước Việt Nam.

0:00 / 0:00

Trong số những vấn đề liên quan đến biên giới Việt-Trung thì Ải Nam Quan là nhạy cảm hàng đầu vì nó gắn liền với tâm tư, với tình cảm của con người, cũng như với lịch sử của đất nước Việt Nam. Mời quý vị theo dõi tiếp cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn do Nguyễn An thực hiện về Ải Nam Quan. Bài này đã phát trước đây khi ông Phụng chưa là Đại Sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ, nhưng những vấn đề đặt ra thì cho tới nay vẫn chưa được trả lời dứt khoát.

Ông Trương Nhân Tuấn hiện cư ngụ tại Pháp và là tác giả cuốn "Biên Giới Việt-Trung 1885-2000, Lịch sử thành hình và những tranh chấp" dày 860 trang, do nhà xuất bản Dũng Châu ấn hành vào Năm 2005, cho đến nay vẫn được đánh giá là nghiên cứu công phu nhất về vấn đề này.

Trước Năm 1885, đó chỉ là hai cánh cửa làm bằng gỗ thôi, có chạm trổ rồng phượng ở trên đó. Về sau, khi chiến tranh với Pháp năm 1885 thì cánh cửa đó bị giật sập, và họ mới xây dựng lại một kiến trúc mà chúng ta thấy ngày hôm nay

Xin được nhắc lại rằng ý kiến của ông Trương Nhân Tuấn không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.

Con yếu quý, chớ xuôi lòng mềm yếu,

Gát tình riêng vỗ cánh trở về Nam.

Con về đi, tận trung là tận hiếu,

Đem gươm mài bóng nguyệt dưới khăn tang,

Nếu Trời muốn cho nước ta tiêu diệt

Thì lưới thù sẽ úp xuống đầu dân.

Về ngay đi, rồi chí nguyện công thành.

Nghĩ đến cha một phương trời ảm đạm,

Chỉ nghiến răng vung kiếm quét quân thù,

Trãi! Con ơi, tương lai đầy ánh sáng,

Cha đứng đây trông suốt được ngàn thu. . .

Nghe cha nói tương lai đầy ánh sáng

Khiến lòng con bừng tỉnh một cơn mê.

Quỳ lạy cha, cha lên đường ảm đạm,

Rời Nam Quan, theo gió con bay về.

Ôi! Sung sướng, trời cao chưa nỡ tắt,

Về ngay đi, ghi nhớ hận Nam Quan.

Bến Kim Lăng cho đến ngày nhắm mắt,

Cha nguyện cầu con lấy lại giang san.

Trên đây là trích đoạn kịch thơ "Hận Nam Quan" của thi sĩ Hoàng Cầm mô tả cuộc chia tay bi hùng giữa Nguyễn Phi Khanh và con trai là Nguyễn Trãi tại Ải Nam Quan khi Phi Khanh bị quân Minh bắt đưa về Trung Quốc. Liệu điểm chia tay vào đầu Thế Kỷ XV đó, nay thuộc về Việt Nam hay Trung Quốc? Mời quý vị theo dõi cuộc trao đổi giữa biên tập viên Nguyễn An (Ban Việt Ngũ , Đài Á Châu Tự Do) và nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn, sau đây:

Nguyễn An : Kính chào nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn. Trước hết tôi xin ông nói rõ về nội dung của cụm từ Ải Nam Quan. Đó là một khu vực hay là một kiến trúc, hay là một con đường?

Ông Trương Nhân Tuấn : Dạ, chào nhà báo Nguyễn An. Cũng xin kính chào quý vị thính giả. Về ý nghĩa của cụm từ Ải Nam Quan, thì nếu mình gọi đây là một khu vực, hay là một kiến trúc, hay là một con đường, theo tôi thì tất cả đều đúng hết. Tôi xin phép được giải thích.

Trước Năm 1885, đó chỉ là hai cánh cửa làm bằng gỗ thôi, có chạm trổ rồng phượng ở trên đó. Về sau, khi chiến tranh với Pháp năm 1885 thì cánh cửa đó bị giật sập, và họ mới xây dựng lại một kiến trúc mà chúng ta thấy ngày hôm nay đó, được xây từ 1885 đến 1887. Mình thấy kiến trúc đó rất là đồ sộ. Và mình cũng có thể gọi đó là một con đường để chúng ta liên tưởng tới cái "ải" như một cái "pass" (tiếng Pháp, hay tiếng Anh). Thành thử nếu mình gọi đó là một con đường cũng đúng thôi đó anh à.

Biên giới Việt-Trung trước năm 1887 là ngay tại Ải Nam Quan

Nguyễn An : Thưa, từ trước tới nay khi nói đến đất nước Việt Nam kéo dài từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau, thì chứ "Ải Nam Quan" đó chính là kiến trúc mà ông vừa mới nói có phải không?

Ông Trương Nhân Tuấn : Theo tôi nghĩ, đúng là như vậy. Vào thời Nhà Thanh thì hành chánh họ gọi những cửa ải là "thủ tạp", tức là nơi để họ thu thuế. Cho nên phía bên này cái cửa là của Việt Nam, phía bên kia cái cửa là của người Hoa. Mình nói từ "Ải Nam Quan" đến "Mũi Cà Mau" thì cũng đúng thôi. Nhưng nếu mình nói đúng từ ngữ nguyên thuỷ của Việt Nam để chỉ cái ải đó, thì nếu mình nói đó là "Nam Quan", thì tôi nghĩ rằng đó một vấn đề thuộc về lịch sử.

Nguyễn An : Trước kia ông Lê Công Phụng và mới đây ông Vũ Dũng, cả hai đều là Thứ Trưởng Ngoại Giao và là Chủ Nhiệm Uỷ Ban Biên Giới Quốc Gia, đều nói rằng đường biên giới luôn luôn là phía Nam của Ải Nam Quan, hiểu như một kiến trúc do Trung Quốc xây dựng. Ý kiến của ông như thế nào?

Ông Trương Nhân Tuấn : Tôi nghĩ hai lời tuyên bố của hai vị này, chúng ta cũng hiểu một cách tương đối thôi, là nếu mà chúng ta tính từ Năm 1887, từ Ngày 26-6-1887, tức là từ ngày có Công Ước Pháp - Thanh, và sau đó tới Năm 1897 tức năm chấm dứt công trình cắm mốc, nói đường biên giới là ở phía Nam của cái ải đó thì đúng, của kiến trúc đó thì đúng, không có gì sai. Nhưng, trước khoảng thời điểm đó thì chưa chắc.

Nếu đứng trên quan điểm người Việt Nam mình thì đường biên giớí trước Năm 1887 phải tính là ngang cái cửa ải.

Theo tôi nghĩ, đúng là như vậy. Vào thời Nhà Thanh thì hành chánh họ gọi những cửa ải là "thủ tạp”, tức là nơi để họ thu thuế. Cho nên phía bên này cái cửa là của Việt Nam, phía bên kia cái cửa là của người Hoa.

Ông Trương Nhân Tuấn

Công ước Pháp-Thanh 1887 biên giới bị rời xuống phía nam

Nguyễn An : Thưa, nhưng mà theo hiệp định mà Pháp ký với Nhà Thanh vào Năm 1887 và vào Năm 1895 thì đường biên giới xích xuống phía Nam của Ải Nam Quan, có phải không?

Ông Trương Nhân Tuấn. Thưa phải.

Nguyễn An : Và nếu trong trường hợp mà hiệp định bây giờ (1999) mà căn cứ theo hiệp định đã ký, đã có rồi, thì cũng phải coi như là cái đường biên giới đó nằm ở phía Nam của Ải Nam Quan?

Ông Trương Nhân Tuấn : Đúng như vậy. Nhưng cái quan trọng là...

Nguyễn An : Thưa ông, như vậy là hai ông Lê Công Phụng và Vũ Dũng đã nói đúng về điều này?

Ông Trương Nhân Tuấn : Thưa đúng.

Nguyễn An : Thưa, nhưng mà cái vấn đề là đã nằm phía Nam là đúng thì cái khoảng cách nó như thế nào?

Ông Trương Nhân Tuấn : À, cái đó mới là cái vấn đề. Vậy thì nó nằm phía Nam nhưng mà mình đâu có biết nó nằm phía Nam cách cổng là bao nhiêu? Sự khó khăn của những người làm nghiên cứu hiện nay là cái bộ bản đồ đi kèm với hiệp ước biên giới ký vào Tháng 12-1999 thì (Hà Nội) chưa có công bố. Chỉ khi nào (bản đồ này) được công bố mới so sánh bộ bản đồ Năm 1999 với bộ bản đồ Năm 1887 ở cái điểm Nam Quan thì chúng ta mới biết nó xê xích như thế nào.

Nhưng mà có một số tài liệu cho biết vùng Nam Quan này đã bị dời về phía Nam so với Công Ước 1887. Cái vấn đề dời đó (thì) có hai điểm dời:

(1) Điểm nối đường rầy (xe lửa) cũng ở gần vùng Nam Quan đó, gần Ải Nam Quan đó, thì vùng đó bị dời khoảng 300 thước (mét) về phía Nam,

Cũng theo một số tài liệu ở trong nước đưa ra, hay là một số tài liệu của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã công bố trước đó, thì mình thấy cột mốc đó đã bị dời về phía Nam. Nó đã bị phá đi và dời về phía Nam vài trăm thước (mét)

Ông Trương Nhân Tuấn

và (2) con đường có Ải Nam Quan đó, theo Công Ước 1887, cột mốc trên con đường đó tên là Trấn Nam Quan Ngoại, được cắm ở phía Nam của kiến trúc (tức Ải Nam Quan), cách kiến trúc đó 100 mét.

Cũng theo một số tài liệu ở trong nước đưa ra, hay là một số tài liệu của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã công bố trước đó, thì mình thấy cột mốc đó đã bị dời về phía Nam. Nó đã bị phá đi và dời về phía Nam vài trăm thước (mét), nhưng mà mình không biết chính xác là bao nhiêu trăm thước (mét).

Nguyễn An : Nhưng mà lúc đầu thì là 100 thước (mét) phải không ạ?

Ông Trương Nhân Tuấn : Ban đầu theo Công Ước 1887 là cột mốc đó mang số 18, cắm cách cổng 100 thước (mét) về phía Nam, trên con đường từ Nam Quan về Đồng Đăng.

Nguyễn An : Nếu như vậy thì bây giờ mình coi đó là 100 thước (mét), là biên giới đúng đi thì bây giờ nó dời bao xa về phía Nam?

Ông Trương Nhân Tuấn : Điểm đó mình chưa có thể xác định được, thưa anh, tại vì cái bản đồ biên giới chính thức (1999) chưa công bố. Nhưng mà theo một số tài liệu thì dời khoảng vài trăm thước (mét), có thể 300, 400 thước (mét).

Nguyễn An : Bây giờ cái khoảng mà cái hiệu số giữa số đó và cái 100 thước (mét) ban đầu thì có thể coi như là lãnh thổ của Việt Nam bị mất về Trung Quốc, phải không?

Ông Trương Nhân Tuấn : Thưa đúng vậy. Đó là mình bị mất đó. Và không hẳn chỉ có ở Nam Quan mà thôi đâu.

Nguyễn An : Hồi nãy ông có nói rằng có nhiều nguồn để nói về chuyện di chuyển đường biên giới về phía Nam của Ải Nam Quan, thì bây giờ nguồn thứ nhất như ông vừa nói, tức là dời vào khoảng vài trăm thước, thế bây giờ còn nguồn nào khác liên quan đến đường biên giới ở chỗ Ải Nam Quan đó không?

Ông Trương Nhân Tuấn : Tôi thì tôi có một số tài liệu từ trong nước gửi qua. Những tài liệu đó không thể nào gọi đó là tài liệu chính thức được, tại vì cái hiệp ước đó chưa công bố. Nhưng mà tôi có tài liệu chính thức của nhà nước cộng sản Việt Nam công bố Năm 1979.

Quyển sách đó nói về tình hình biên giới giữa Việt Nam với lại Trung Quốc, thì trong đó Việt Nam tố cáo là Trung Quốc, đặc biệt tại điểm Nam Quan, là phía Việt Nam tố cáo rằng phía Trung Quốc ủi nát cột mốc biên giới số 18, cách cửa Nam Quan 18 mét trên đường Quốc Lộ, để xoá vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột mốc Kilomét 0 vào sâu lãnh thổ Việt Nam trên 100 mét, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.

Trong tài liệu này nói rằng "trên 100 mét" thì mình không biết "trên 100 mét" là bao nhiêu, vì 200 mét cũng là "trên 100 mét".

Quyển sách đó nói về tình hình biên giới giữa Việt Nam với lại Trung Quốc, thì trong đó Việt Nam tố cáo là Trung Quốc, đặc biệt tại điểm Nam Quan, là phía Việt Nam tố cáo rằng phía Trung Quốc ủi nát cột mốc biên giới số 18, cách cửa Nam Quan 18 mét trên đường Quốc Lộ, để xoá vết tích đường biên giới lịch sử

Ông Trương Nhân Tuấn

Nhưng mà có một tài liệu mới đây, tức là bản đồ khu vực 249C, tức là khu vực Hữu Nghị Quan, thì tôi có đo và so sánh, tôi nghĩ là mất khoảng 300 thước (mét), từ cột mốc 18 cũ cho đến đường biên giới mới, tức là từ biên giới cũ cho đến biên giới mới, dời về phía Nam khoảng 300 thước (mét).

Nguyễn An : Thưa, nhưng mà về cái mất thì bây giờ không có bằng cớ nào để có thể khẳng định được, có phải không?

Ông Trương Nhân Tuấn : Thưa không. Chính thức thì mình không thể nào khẳng định được, tại vì cái bản đồ chính thức chưa công bố mà. Mình đâu có thể nào, mình dựa trên căn bảo nào, mình không có căn bản để mình dựa lên đó để có kết luận hết.

Nguyễn An : Thưa, như vậy chúng ta sẽ phải chờ cho đến bao giờ mà nhà nước Việt Nam công bố cái bản đồ đó?

Ông Trương Nhân Tuấn : Đúng vậy.

Nguyễn An : Mà đó là bộ phận không thể tách rời được của hiệp định? Nhưng mà hiệp định thì (Hà Nôi)j cho biết rồi, nhưng bản đồ thì chưa có? Dạ, xin cảm ơn nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn ạ.

Ông Trương Nhân Tuấn : Dạ, cảm ơn ông Nguyễn An.

Quý vị vừa nghe phần thứ tư và cũng là phần cuối cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn, do Nguyễn An thực hiện, liên quan đến những phát biểu của Đại Sứ Lê Công Phụng về vấn đề biên giới và Hiệp Định Biên Giới Việt-Trung.

Chúng tôi mong được đón nhận ý kiến của quý vị về vấn đề này. Thư xin gửi về vietweb@rfa.org.