Việt Nam ở vị trí nào trong chính sách ngoại giao Hoa Kỳ? (phần 1)

Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton đến thăm Việt Nam vào ngày 22 tháng 7.

0:00 / 0:00

Đây là lần đầu tiên bà Clinton đến Việt Nam với tư cách là Ngoại trưởng Mỹ, để tham dự Hội nghị Bộ trưởng ASEAN, thảo luận các vấn đề song phương giữa hai nước cũng như tham dự lễ kỷ niệm mười lăm năm quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ.

Nhân dịp này, chúng tôi xin điểm qua một số sự kiện có liên quan đến quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ, để chúng ta có cái nhìn rõ hơn về vị trí của Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ cũng như ở khu vực Đông Nam Á.

Quan hệ Việt - Mỹ sau chiến tranh

Quan hệ Việt - Mỹ sau khi chiến tranh kết thúc năm 1975 đã bị đóng băng trong thời gian gần hai mươi năm. Trong thời gian đó, Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Đó là vào thời điểm năm 1977, dưới thời Tổng thống Jimmy Carter, có nhiều bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam.

Có lẽ do lợi ích chiến lược của Hoa Kỳ ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, nên Mỹ đã thay đổi thái độ cũng như quan điểm đối với Việt Nam sau khi chiến tranh kết thúc. Ông Andrew Young, đại sứ Hoa Kỳ tại LHQ đã nói rõ lập trường của Mỹ đối với Việt Nam hồi đầu năm 1977 như sau: "Chúng tôi xem Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam hùng mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ."

Chúng tôi xem Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam hùng mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ.

Ông Andrew Young

Tháng 3 năm 1977, Hoa Kỳ đã nới lỏng lệnh cấm vận đối với Việt Nam như, cho phép tàu bè và máy bay của các nước khác chở hàng sang Việt Nam được phép ghé các cảng và sân bay của Hoa Kỳ để tiếp nhiên liệu. Cũng trong thời gian này, Hoa Kỳ đã cho phép công dân Mỹ đến thăm Việt Nam.

Song song với việc nới lỏng lệnh cấm vận, phía Mỹ cũng đã cử ông Leonard Woodcock, là đặc phái viên của Tổng thống Jimmy Carter cùng các thành viên, trong đó có Thượng nghị sĩ Mansfield, đến thăm Việt Nam. Và Hoa Kỳ cũng đã không còn chống đối Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc và cam kết sẽ chấm dứt lệnh cấm vận thương mại một khi quan hệ ngoại giao được thiết lập.

Phía Việt Nam cũng có dấu hiệu cho thấy hai nước sớm bình thường hóa, chẳng hạn như chương trình phát thanh của Đài Phát thanh Hà Nội lúc đó cũng cho thấy, Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị cho người dân trong việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã hứa sẽ cung cấp thêm các chi tiết về người Mỹ mất tích trong chiến tranh (MIA).

Việt Nam bỏ lỡ cơ hội

Sau chuyến thăm Việt Nam của ông Woodcock, hai nước đã có cuộc đàm phán đầu tiên hồi tháng 5 năm 1977 tại Paris. Thế nhưng, có lẽ do quá say sưa với chiến thắng đế quốc Mỹ nên Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Tin tức cho biết, một trong những trở ngại lớn trong vòng đàm phán đầu tiên đó là, Việt Nam đưa ra điều kiện bồi thường chiến tranh làm điều kiện bang giao với Hoa Kỳ.

Hkg456076-200.jpg
Một anh xe ôm ngồi đọc báo trước một cửa hàng sách ở SG với áp phích quảng cáo cho tập hồi ký của cựu đệ nhất phu nhân Hillary Clinton hôm 26/1/2007. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam (Một anh xe ôm ngồi đọc báo trước một cửa hàng sách ở SG với áp phích quảng cáo cho tập hồi ký của cựu đệ nhất phu nhân Hillary Clinton hôm 26/1/2007. AFP PHOTO / HOANG DINH Nam)

Trong khi đó, ở trong nước, Quốc hội Hoa Kỳ đã bỏ phiếu áp đảo để ngăn chính phủ không cho đàm phán liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ hay bất kỳ việc thanh toán nào cho Việt Nam. Những lần bỏ phiếu kế tiếp của Quốc hội cũng đã phản đối mạnh mẽ bất kỳ hình thức viện trợ nào cho Việt Nam và thậm chí chống đối cả việc dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại.

Phía Việt Nam vẫn không thay đổi quan điểm, mặc dù có thay đổi trong cách gọi tên, như không yêu cầu Hoa Kỳ bồi thường chiến tranh, mà muốn Hoa Kỳ phải đóng góp để hàn gắn vết thương và tái thiết đất nước sau chiến tranh, với số tiền là 3,2 tỷ đô la, theo ông Trần Quang Cơ, viên chức ngoại giao Việt Nam cho biết.

Trong khi phía Việt Nam cho rằng, Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh là một nghĩa vụ không thể phủ nhận, phía chính phủ Carter cho biết sự hỗ trợ theo yêu cầu của Việt Nam là không thể thực hiện được.

Vòng đàm phán tiếp theo ở Paris hồi tháng 6 năm 1977 đã diễn ra trong bầu không khí ảm đạm và đi vào bế tắc vì vấn đề viện trợ. Phía Hoa Kỳ nói rằng, do gặp khó khăn về vấn đề pháp lý, như Quốc hội Mỹ kiên quyết không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, nên phía Mỹ không thể thực hiện điều đó.

Phái đoàn Hoa Kỳ đã hứa sẽ thực hiện việc viện trợ sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao, thế nhưng phía Việt Nam vẫn không chấp nhận. Và đây là nguyên nhân chính dẫn đến việc các vòng đàm phán kế tiếp giữa hai nước không đi đến kết quả.

Vòng đàm phán thứ ba được tổ chức hồi tháng 12 cùng năm, thế nhưng hai bên vẫn không đạt được các thỏa hiệp.

Các nguyên nhân khác

Ngoài vấn đề bồi thường chiến tranh, các nguyên nhân khác cũng đã làm cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước trở nên khó khăn hơn, như vấn đề tù nhân chiến tranh và người Mỹ mất tích khi làm nhiệm vụ (POW và MIA) là các vấn đề nhạy cảm về chính trị.

Trong khi phía Việt Nam cho rằng, Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh là một nghĩa vụ không thể phủ nhận, phía chính phủ Carter cho biết sự hỗ trợ theo yêu cầu của Việt Nam là không thể thực hiện được. <br/>

Một nguyên nhân không kém phần quan trọng, đó là quan điểm khác nhau của các viên chức Hoa Kỳ trong vấn đề Việt Nam và Trung Quốc đã thay đổi sau ba vòng đàm phán. Trong khi ông Cyrus Vance, Ngoại trưởng Hoa Kỳ thời bấy giờ, cùng lúc muốn Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao với hai nước Việt -Trung, thì ông Zbigniew Brzezinski, Cố vấn An ninh Quốc gia, chỉ tập trung vào Liên Xô cũ, tức là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để gây áp lực với Liên Xô.

Do ba vòng đàm phán đều thất bại, cũng như quan điểm của ông Brzezinski chuyển sang kế hoạch bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, nên vòng đàm phán Việt - Mỹ lần thứ tư hồi tháng 9 năm 1978 giữa ông Richard Holbrooke, Phụ tá Ngoại trưởng, phụ trách châu Á Thái Bình Dương với ông Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã không đi đến kết quả.

Mặc dù trong lần đàm phán này, phía Việt Nam đã không còn đòi hỏi Hoa Kỳ phải bồi thường chiến tranh và chấp nhận bình thường hóa quan hệ vô điều kiện, thế nhưng có lẽ các nhượng bộ từ phía Việt Nam lúc đó đã quá muộn, do Hoa Kỳ đang chuẩn bị thiết lập quan hệ với Trung Quốc. Và rồi, đầu năm 1979 Hoa Kỳ đã thiết lập bang giao với Trung Quốc, để rồi chưa đầy hai tháng sau Trung Quốc đưa quân sang đánh Việt Nam.

Trong khi đó, quan hệ Việt Mỹ tiếp tục bị đóng băng cho đến năm 1991; dưới thời Tổng thống George Bush (Bush cha), Hoa Kỳ dỡ bỏ phần nào lệnh cấm vận, cho đến ngày 12 tháng 7 năm 1995, quan hệ ngoại giao giữa hai nước mới được thiết lập hoàn toàn.

Sau 15 năm bình thường hóa quan hệ, Việt Nam đang đứng ở vị trí nào trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ? Đâu là nguyên nhân gây cản trở hai nước tiến xa hơn nữa? Đó sẽ là nội dung bài kế tiếp.