Đàm phán COC: hành trình còn dài và nhiều gian nan

0:00 / 0:00

Kể từ khi Trung Quốc và ASEAN thống nhất được bộ khung Bộ quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (gọi tắt là COC – Code of Conduct) cho đến nay, giới học giả, nghiên cứu và xây dựng chính sách quốc tế vẫn còn nhiều bàn luận, thông qua nhiều cuộc hội thảo, gần đây nhất là hội thảo quốc tế lần thứ 9 về Biển Đông tổ chức tại TP.HCM và một hội thảo quốc tế cùng chủ đề được tổ chức tại Viện Nghiên cứu Á - Phi, Đại học Hamburg (Đức) cuối tháng 11, đầu tháng 12 vừa qua. Giới quan sát từ Hà Nội có sự nhìn nhận đặc biệt về COC dưới góc độ lợi ích quốc gia của Việt Nam.

Hành trình đàm phán COC còn dài

Sau gần 15 năm kể từ ngày ký Tuyên bố Ứng xử các Bên trên Biển Đông (gọi tắt là DOC) tháng 11/2002, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN – Trung Quốc tại Manila, Philippines ngày 06/8/2017 đã chính thức thông qua khung của một Bộ quy tắc Ứng xử (COC) là tập hợp những nguyên tắc, quy định và trách nhiệm hay cách hành xử phù hợp của các bên có liên quan trong vùng biển này. Đây được xem là một bước tiến của quá trình đàm phán lâu dài, trong bối cảnh Trung Quốc có nhiều hành động gây căng thẳng trên biển, nhằm thực hiện yêu sách chủ quyền phi lý.

Từ Hà Nội, nhà văn Nguyễn Nguyên Bình – một nhà quan sát chính trị cho rằng, việc đàm phán COC trong nhiều năm bị trì hoãn là do Trung Quốc không muốn bị ràng buộc, vấp phải khó khăn trong quá trình thực hiện yêu sách chủ quyền đối với phần lớn diện tích Biển Đông.

“Bởi vì COC là một quy tắc anh phải tuân theo, chứ không phải như DOC – chỉ là tuyên bố, ai theo thì theo. Còn Trung Quốc thì âm mưu chiếm Biển Đông, thì không thể nào muốn có một quy tắc gì ràng buộc mình. Mà đã là quy tắc thì ai cũng phải tuân theo.”

Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng – nhà ngoại giao kỳ cựu cho biết, việc đàm phán để đạt được bộ khung COC hồi tháng 8/2017 lần này được thúc đẩy bởi Trung Quốc. Ông phân tích, có hai điểm có lợi trên thực địa khiến Trung Quốc nóng lòng đạt được sự công nhận trong COC. Điều đầu tiên là việc Trung Quốc đã bồi đắp các thực thể mà nước này chiếm được trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

“Từ 2015 đến nay, con số đó đã lên đến hàng ngàn héc ta, chứ không còn ở mức 800 héc ta. Như vậy, phải nói rằng chiếm hữu của Trung Quốc trên Biển Đông là lớn. Cái thứ hai là Trung Quốc cũng đã hoàn thành quân sự hóa ở những điểm mà Trung Quốc mở rộng, xây dựng ra. Bây giờ Trung Quốc muốn có một thỏa thuận để công nhận hiện trạng đấy.”

<i>Trung Quốc đã hoàn thành quân sự hóa ở những điểm mà Trung Quốc mở rộng và xây dựng ra. Bây giờ Trung Quốc muốn có một thỏa thuận để công nhận hiện trạng đấy.<br/>- TS. Đinh Hoàng Thắng</i>

Bên cạnh đó, Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng cho biết, Trung Quốc cũng tận dụng sự không thống nhất trong nội bộ ASEAN về vấn đề Biển Đông, một điều mà nước này nhiều năm nay đã cố gắng tạo ra bằng sự ảnh hưởng kinh tế, thương mại và đầu tư.

“Nhất là trong bối cảnh vừa rồi Trung Quốc bác cái thỏa thuận của tòa (phán quyết của Tòa Trọng tài Quốc tế PCA trong vụ kiện của Philippines năm 2016). Trung Quốc muốn nhân cái này để xây dựng hình ảnh rằng Trung Quốc và ASEAN đã có thỏa thuận về Biển Đông. Tuy nhiên, khả năng thực thi thỏa thuận này và quá trình đàm phán để đi đến thỏa thuận cuối cùng thì chắc chắn còn lâu dài và không dễ dàng.”

Những thiếu sót của COC và gian nan của Việt Nam

Với vị trí chiến lược của Biển Đông trong giao thương quốc tế, nhà văn Nguyên Bình nhấn mạnh đến sự quan tâm của các nước lớn về tranh chấp trong vùng biển này, trong đó có việc đàm phán COC.

“Tức là người ta (các nước phương Tây) trải qua một thời kỳ thực dân, thì người ta hiểu rằng thời kỳ thực dân ấy có tác hại thế nào đối với quốc tế. Bây giờ người ta thoát khỏi thời kỳ thực dân ấy rồi và người ta bình tĩnh xây dựng đất nước, tạo ra dân chủ, mẫu mực đối với thế giới. Thì người ta nhìn nhận vấn đề Biển Đông rất là khách quan, rất bình tĩnh – đó là cái nhìn nhận của những người từng trải.”

Đánh giá về nội dung của bộ khung COC, Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng cho biết, văn bản này chứa một số mục tiêu và nguyên tắc chung, nhưng chưa có chi tiết cụ thể, và có nhiều điểm là sự lặp lại của DOC, trong đó có mục tiêu ngăn chặn sự cố và giải quyết tranh chấp trên biển; nguyên tắc đàm phán COC dựa trên cơ sở Luật biển của Liên Hợp Quốc (UNCLOS); và 5 nguyên tắc sống chung hòa bình. Trung Quốc đã lưu ý các nước ASEAN không nên chờ đợi quá cao về COC, và chỉ nên coi COC là một thành phần của DOC.

“Tôi nghĩ cái thiếu lớn nhất mà các thành viên mong đợi, đó là tính ràng buộc về mặt pháp lý. Không nói rõ là COC này khác DOC ở chỗ - DOC là tuyên bố chính sách, chính trị, còn đây là một bộ quy tắc thì phải mang tính ràng buộc. Mà muốn có tính ràng buộc, thì ngoài cơ chế giám sát việc thực thi, thì phải có các biện pháp thực thi, cũng như cơ chế phân xử khi các bên vi phạm thì không thấy nói rõ.”

Điều này khớp với nhận định ban đầu của Nhà văn Nguyên Bình rằng, Trung Quốc không muốn chịu sự ràng buộc pháp lý bởi COC trong các hành động của nước này trên Biển Đông. Bà Bình đánh giá thêm rằng, bộ khung COC này “không thể hiện rõ quyền lợi của các nước ASEAN”.

<i>Cái thiếu lớn nhất đó là tính ràng buộc về mặt pháp lý. Không nói rõ là COC này khác DOC ở chỗ nào - DOC là tuyên bố chính sách, chính trị, còn đây là một bộ quy tắc thì phải mang tính ràng buộc. <br/>- TS. Đinh Hoàng Thắng</i>

Nhìn từ góc độ lợi ích quốc gia và chủ quyền của Việt Nam, vấn đề giải quyết tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là then chốt trong vấn đề Biển Đông. Tuy nhiên, theo Tiến sỹ Đinh Hoàng Thắng, vấn đề này không được nhắc tới trong COC.

“Tức là quy định phạm vi địa lý của COC này là như thế nào? Hoàng Sa – Trường Sa có bao gồm vào đây hay không? Thời đàm phán DOC đã nêu ra, nhưng lúc bấy giờ không được chấp nhận. Mà lần này cũng không thấy ghi rõ trong này (COC), thì điều đó chứng tỏ rằng quá trình phân xử sau này, đặc biệt là khi có xung đột ở Hoàng Sa – Trường Sa thì rất khó, không có cơ sở để giải quyết.”

Theo Nhà văn Nguyên Bình, dù còn nhiều điểm thiếu sót, không cụ thể trong bộ khung, việc đạt được thỏa thuận cuối cùng về COC không loại trừ đi các khả năng khác trong việc bảo vệ chủ quyền trên Biển Đông của các bên liên quan trong tranh chấp - mà Việt Nam thường gọi là “các biện pháp đấu tranh ngoại giao và pháp lý”. Bà Nguyên Bình lấy ví dụ về việc Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa Trọng tài Quốc tế PCA.

“Chỉ có một điều là tòa La Hay không có chế tài để bắt Trung Quốc thực hiện thôi, chứ công lý đã được tuyên bố ra rồi. Thế Việt Nam sắp tới mà có đi kiện, mình có đủ chứng cứ, thì không ai bác bỏ được chuyện đấy cả. Dù tòa chưa có chế tài, thì cũng đã nói được chính nghĩa ở phía bên nào rồi. Các nước ASEAN, có những chủ quyền do người ta tuyên bố. Cái nào ra cái đấy, chả ảnh hưởng gì COC cả.”