Sau khi chiến tranh kết thúc, cố thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng sang thăm Singapore. Trước khi đón tiếp ông Đồng, cố thủ tướng Singapore là Lý Quang Diệu đã mong đợi một sự hợp tác sau chiến tranh nhằm phát triển kinh tế và đem lại lợi ích cho cả hai quốc gia. Tuy vậy, cuộc gặp gỡ đã diễn ra như một gáo nước lạnh dội vào niềm tin hợp tác của ông.
Với một thái độ ngạo mạn, ông Đồng yêu cầu ông Diệu phải cảm thấy có trách nhiệm trong chuyện giúp Việt Nam phục hồi sau chiến tranh vì ông cho rằng Singapore đã hưởng lại trong chiến tranh Việt Nam. Đáp lại, ông Diệu đã từ chối, rằng Singapore không có một trách nhiệm nào để làm điều đó và sự hợp tác phải là đôi bên cùng có lợi.
Chuyện này được ông Diệu kể trong cuốn Hồi ký của mình, “Từ Thế Giới Thứ Ba Đến Thế Giới Thứ Nhất: Câu Chuyện Singapore 1965-2000”.
Sau khi bị đẩy ra khỏi liên bang Malaysia, Singapore ở trong một hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Khó khăn về kinh tế và cả khó khăn về an ninh quốc phòng. Sự sống sót trên chính đôi tay của nó là một điều kỳ diệu đối với ông Lý Quang Diệu. Đảo quốc Singapore quá nhỏ để tự nó có thể sống sốt nếu chỉ dựa vào nền kinh tế nội địa của mình. Trong khi đó Singapore đang ở thế đối đầu với Malaysia và Indonesia. Malaysia xem Singapore là một vùng đất ly khai; còn Indonesia xem Singapore là đại diện của Trung Quốc, là hang ổ của chủ nghĩa cộng sản và sẵn sàng truyền bá tư tưởng này vào nước mình.
Ngày nay, sau một thế hệ, Singapore đã trở thành một quốc gia hiện đại và thành công. Từ chỗ là nước có thu nhập bình quân đầu người (GDP per capita) chỉ bằng một phần ba mức trung bình của các nước Tây Âu, ngày nay, mức thu nhập bình quân đầu người của người dân Singapore đã cao gấp hai lần mức trung bình ở Tây Âu.
Sự thành công của Singapore đã trở thành một mô hình để giới lãnh đạo các nước học hỏi. Trong suốt quá trình dẫn dắt Singapore từ thế giới thứ ba sang thế giới thứ nhất, Singapore đã luôn duy trì hệ thống chính trị với một đảng lãnh đạo. Điều này đã gây ấn tượng với các lãnh đạo cộng sản của Việt Nam. Họ muốn học ở Singapore, học cách vừa duy trì sự cầm quyền của đảng Cộng sản vừa có thể phát triển quốc gia để đem lại tính chính danh cho mình.
Trước khi ông Tô Lâm công khai khen ngợi Singapore, cựu thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã từng tham vấn ông Lý Quang Diệu những kế sách nhằm phát triển quốc gia. Không biết ông Kiệt có học hỏi gì từ những lời khuyên của ông Diệu hay không, cái mà chúng ta thấy kể từ thời ông Võ Văn Kiệt cho đến nay, Việt Nam hầu như không có những chính sách nào tương tự như những chính sách nền tảng đã thay đổi ngoạn mục Singapore chỉ trong một thế hệ.
Vậy đâu là những chính sách then chốt của Singapore và liệu Việt Nam có thể học và áp dụng những gì?
Đọc thêm
Sài Gòn và Singapore - âm binh và nghiệp quật!
Tổng Bí thư Tô Lâm ca ngợi Việt Nam Cộng Hòa
Tô Lâm thừa nhận Sài Gòn trước 75 phồn vinh: Người Việt hải ngoại nhìn nhận thế nào?
Khi được hỏi rằng ông đã làm gì cho những người dân Singapore, Lý Quang Diệu đã không ngần ngại nói rằng tôi đã cho họ giáo dục. Ngày nay, hệ thống giáo dục của Singapore nằm trong nhóm những nước có giáo dục tốt nhất thế giới, từ phổ thông cho đến đại học. Các học sinh Singapore luôn đứng trong nhóm đầu dựa trên các khảo sát của PISA. Các trường đại học của Singapore thuộc về nhóm những trường tốt nhất châu Á và đứng trong tốp đầu những trường xuất sắc của thế giới.
Giáo dục xuất sắc đã hình thành nên một lực lượng lao động chuyên nghiệp có kỹ năng. Đó là nền tảng giúp tăng năng suất lao động của nền kinh tế.
Nhưng câu hỏi là làm sao một nước nhỏ, con người ít và nhân tài thiếu thốn, lại có thể tạo ra những đại học với chất lượng hàng đầu thế giới? Câu trả lời nằm ở chỗ chính sách đón nhận nhân tài nước ngoài của Singapore.
Chính phủ có hẳn một chương trình mà trong đó cả chính phủ và người dân đều mở lòng đón nhận và tri ân những nhân tài người nước ngoài. Người nước ngoài đến làm việc ở Singapore được chào đón, và cuối mỗi năm trong các bài báo tổng kết cả năm, chính phủ không quên lời cảm ơn và ghi nhận những đóng góp của họ.
Sự đóng góp của các giáo sư người nước ngoài trong các đại học và viện nghiên cứu của Singapore đã giúp cho Singapore nhanh chóng bắt kịp trình độ phát triển khoa học và công nghệ của thế giới.
Để có thể tận dụng tối đa nguồn nhân lực, khuyến khích và ghi nhận sự đóng góp của công chức, chính phủ Singapore xây dựng chế độ tuyển dụng và phân bổ công việc dựa trên năng lực (merit-based). Người giỏi được tuyển dụng. Tuy vậy, do xã hội Singapore là một xã hội đa sắc tộc mà trong đó có ba nhóm chính là gốc Hoa, gốc Malay, và gốc Ấn Độ, yếu tố hoà hợp đa sắc tộc trong xã hội luôn được chú ý để bảo đảm một sự cân bằng nhằm tránh những xung đột xã hội — một điều đã từng diễn ra trong quá khứ. Ở các cơ quan chính phủ, sự hiện diện của các nhóm sắc tộc khác nhau luôn được khuyến khích trên tinh thần đa sắc tộc.
Để tuyển dụng những công chức tốt nhất, chính phủ Singapore luôn công khai tìm kiếm những ứng viên phù hợp nhất. Với các giáo sư hay hiệu trưởng đại học, họ có những uỷ ban chịu trách nhiệm tìm kiếm. Để tuyển dụng những công chức cho các cơ quan chính phủ, hàng năm vào cuối mỗi năm học, khi sinh viên bắt đầu tốt nghiệp, trong các hội chợ việc làm, người ta luôn nhận thấy sự hiện diện của các cơ quan chính phủ khác nhau. Các cơ quan này chỉ tuyển những sinh viên tốt nghiệp hạng ưu và chứng tỏ năng lực của mình phù hợp đối với vị trí trong cơ quan. Việc tuyển dụng những nhân viên ưu tú dựa trên năng lực và sau đó sẽ trả những mức lương cực kỳ cạnh tranh đã giúp cho hệ thống hành chính của Singapore có năng lực, giảm bớt nhu cầu cần tham nhũng. Việc các cơ quan chính quyền có năng lực và ít tham nhũng đến lượt nó đã giúp kiến tạo và triển khai những chính sách tốt làm nên sự thành công của chính quyền Singapore.
Trước khi ông Lý Quang Diệu mất, người ta có hỏi ông rằng liệu Singapore có cần phải xây tượng đài để tưởng nhớ ông không thì ông lắc đầu và nói rằng hãy nhìn quanh Singapore, những thành công của Singapore chính là tượng đài của ông. Ngày nay, mỗi khi nhìn Singapore phồn vinh, xanh và sạch, được mệnh danh là thành phố trong rừng, người ta sẽ luôn nhớ đến tên ông mà không cần những tượng đài hay lăng tẩm. Sự không lãng phí và bên cạnh nó là sự không tham nhũng đã là nền tảng cơ bản để một đất nước thành công. Quyết tâm chống tham nhũng là một trong những mục tiêu chính của đảng Nhân dân Hành động mà ông là một trong những người sáng lập. Trong ngày sáng lập đảng, các đảng viên đã chọn mặc áo trắng để thể hiện quyết tâm có một chính quyền trong sạch.
Sẽ là một thiếu sót khi nhắc đến sự thành công của Singapore mà không nhắc đến hệ thống chính trị và luật pháp ưu việt mà Singapore đã kế thừa từ hệ thống của Anh.
Kể từ ngày độc lập, tiếng Anh trở thành ngôn ngữ chính thức của Singapore. Việc sử dụng tiếng Anh trong giáo dục, thương mại, và luật pháp đã giúp Singapore dễ dàng trở thành một trung tâm thương mại và tài chính của khu vực nơi mà các hãng xưởng trên thế giới muốn dùng Singapore như là một cầu nối hay một trụ sở nhằm tiếp cận thị trường Đông Nam Á.
Singapore đã duy trì hệ thống thông luật của Anh với những chỉnh sửa nhỏ nhằm đáp ứng nhu cầu của đảo quốc. Nhờ sự tương đồng đó, sinh viên Singapore có thể theo học luật ở các nước trong khối Thịnh Vượng Chung và quay trở về Singapore để làm việc. Các luật sư nước ngoài từ khối Thịnh Vượng Chung cũng có thể được bổ nhiệm làm thẩm phán các toà án cấp cao của Singapore. Bằng cách làm như vậy, Singapore đã bảo đảm được rằng họ có đủ những thẩm phán có năng lực và hệ thống luật pháp của Singapore là công tâm và không thiên vị.
Điều này đến lượt nó trở thành một ưu điểm giúp Singapore thu hút không chỉ các doanh nghiệp muốn tiếp cận thị trường Đông Nam Á mà các doanh nghiệp quốc tế cũng muốn đặt trụ sở ở đây nơi mà luật pháp minh bạch, công tâm, và dễ dàng tiếp cận bằng tiếng Anh. Sự có mặt ngày càng nhiều các công ty quốc tế đặt trụ sở ở Singapore nghiễm nhiên biến Singapore thành một trung tâm thương mại, dịch vụ, và tài chính của thế giới.
Những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam nhìn Singapore thịnh vượng dưới sự dẫn dắt duy nhất của đảng Nhân dân Hành động Singapore (PAP) như là một hình mẫu và muốn noi theo. Tuy vậy, họ dường như quên rằng Singapore theo thể chế chính trị nghị viện và đảng PAP dành quyền lãnh đạo thông qua các cuộc bầu cử dưới sự cạnh tranh với các đảng đối lập. Tương tự như Anh, Singapore áp dụng phương thức bầu cử theo đa số có tên gọi người-nhiều-phiếu-nhất-sẽ-thắng (first past the post - FPTP) mà trong đó người hoặc nhóm dành nhiều phiếu nhất sẽ thắng ở khu vực bầu cử đó. Phương thức bầu cử này có xu hướng tạo ưu thế cho đảng lớn. Tuy vậy, đảng PAP sẽ không thể nắm quyền ở đảo quốc dài lâu và ổn định nếu họ không tạo ra sự thịnh vượng chung cho người dân ở đây. Chính sự thành công trong các chính sách của mình là minh chứng rõ nhất cho sự thành công của họ ở những hòm phiếu. Ngày nay, Singapore theo thể chế chính trị đa đảng, và trong cuộc bầu cử gần nhất, có tới 10 đảng tham gia. Tuy vậy, chỉ có 3 đảng có sự hiện diện ở quốc hội và PAP, chỉ chiếm hơn 60% phiếu bầu, vẫn tiếp tục là đảng cầm quyền mạnh mẽ.
Trở lại trường hợp của Việt Nam, để Việt Nam có thể đi theo con đường của Singapore nhằm trở thành một nước thịnh vượng trong một thế hệ, nó đòi hỏi những cải cách sâu rộng từ những người dẫn dắt quốc gia. Những kinh nghiệm của Singapore cung cấp vô số những bài học.
Những cuộc cải cách này chắc chắn sẽ gặp sự chống đối của những người đang hưởng lợi, không muốn sự thay đổi làm ảnh hưởng đến mình. Nhưng, như bất cứ một cuộc cải cách nào, nhà lãnh đạo cần đặt quyền lợi của dân tộc, quyền lợi của số đông, lên trên lợi ích của một nhóm nhỏ người, những người hưởng lợi bằng cách kéo đất nước tụt hậu lại phía sau. Thời điểm đã chín muồi và người dân Việt Nam sẽ không muốn đợi chờ thêm lâu nữa.
*Bài viết không thể hiện quan điểm của RFA.