Lời Giới Thiệu: Cựu Thủ tướng Việt Nam, ông Võ Văn Kiệt, vừa gửi Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam bản đóng góp ý kiến vào bản “báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới” do Hội nghị TƯĐ lần thứ 12 soạn thảo làm phương hướng cho Đại Hội Đảng khóa 10. Từ TƯĐ được đưa ra ngoài một cách kín đáo, bài tham luận của ông Kiệt nêu lên nhiều vấn đề thực tiễn, phê phán nhiều hành động tả khuynh của lãnh đạo Đảng trong nhiều thời kỳ từ nửa thế kỷ nay, và đề xúât những hướng đi mới. Dưới đây là toàn văn bài viết của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt.
Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới
Võ văn Kiệt
Được các đồng chí gửi cho đọc bản “Báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới” và mời góp ý kiến, tôi đã dành thời gian đọc kỹ, suy ngẫm xem có thể góp được gì vào nội dung hết sức quan trọng này.
Là người có trải qua nhiều chặng đường trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt 65 năm qua, cũng đã có một số năm chỉ đạo hoạt động kinh tế ở nhiều cương vị khác nhau, do đó, cũng phần nào có điều kiện đi đây đi đó, làm việc và tiếp xúc với bên ngoài, có dịp trao đổi với nhiều nhà lãnh đạo của một số nước, tôi cũng tích luỹ được một số hiểu biết, một số kinh nghiệm. Trong vài ba năm gần đây, tuy rời khỏi những vị trí trách nhiệm được Đảng và Nhà nước phân công, song tôi chỉ “rời nhiệm sở” chứ không rời trách nhiệm của người đảng viên đối với sự nghiệp của Đảng và của nhân dân ta.
Với ý thức trách nhiệm và tính chiến đấu của người cộng sản, tôi vẫn cố gắng cống hiến phần đời còn lại cho sự nghiệp lớn của chúng ta. Vì vậy, tôi vẫn cố gắng đi đến những nơi mà mình còn có thể đến được, nắm bắt thực tế để có thể góp phần của mình một cách thiết thực và cụ thể vào công tác của Đảng, trao đổi về công việc với các đồng chí vốn đã từng làm việc với tôi ở các địa phương và các ngành. Tôi cũng dành thời gian tiếp xúc với nhiều anh chị em hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật... để lắng nghe những ý kiến tâm huyết của họ, giúp chuyển tải những ý kiến đóng góp của họ đến những nơi cần thiết.
Chính vì thế, tôi vẫn có được những thông tin giúp mình suy nghĩ, cân nhắc để hôm nay có thể thẳng thắn và chân thành trao đổi với các đồng chí đang làm công tác tổng kết về lý luận và tổng kết về hoạt động thực tiễn, một công tác mà theo nhận thức của tôi, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, đối với sự nghiệp của nhân dân ta trước những thách đố gay gắt chưa có tiền lệ, cũng như trước những vận hội cần phải nắm lấy, không thể để tuột khỏi tay mình. Để cho công tác tổng kết lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn có thực chất, có ý nghĩa trực tiếp và lâu dài đối với sự nghiệp của Đảng ta và của nhân dân ta, cần xác lập một thái độ trung thực và có trách nhiệm, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật như Đại hội VI đã lấy đó làm phương châm để mở đầu cho sự Đổi Mới.
Trên tinh thần đó, tôi xin thẳng thắn trình bày những ý kiến của mình về nội dung của báo cáo tổng kết và đưa ra những kiến nghị. ý kiến của một cá nhân, tất nhiên có những hạn chế của nó. Nhưng nếu trên tinh thần dân chủ và minh bạch trong tranh luận, ý kiến đó được đưa ra trao đổi (phạm vi trao đổi, đương nhiên phải do tổ chức quyết định) một cách thật mạnh dạn, trung thực và chấp nhận sự tranh luận cởi mở và thật sự dân chủ, thì chắc sẽ gặt hái được nhiều kết quả thiết thực và bổ ích, thúc đẩy công tác lý luận đổi mới về nội dung và phương pháp khắc phục tình trạng “chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”, “còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục”, “phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng” như Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khoá IX đã chỉ ra. Nghị quyết cũng đã lưu ý rằng: “những yếu kém bất cập nêu trên là do chưa đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý luận trong giai đoạn mới”.
Tôi mong rằng, bằng những hành động thiết thực trong tổ chức trao đổi và góp ý kiến vào Bản tổng kết lần này, tinh thần cơ bản của nghị quyết nói trên sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc và có chất lượng. Trên ý nghĩa đó, tôi sẽ trình bày những ý kiến và kiến nghị của tôi về những vấn đề sau đây:
Một số ý kiến về nội dung tổng kết lý luận
Trước hết tôi thấy đáng ghi nhận là trong bản tổng kết này các đồng chí đã cố gắng xới lên rất nhiều vấn đề, trong đó có nhiều vấn đề rất phức tạp, khá hóc búa cả về lý luận cũng như về thực tiễn, mà trước đây hoặc chúng ta chưa đề cập tới, hoặc đề cập không thấu đáo, thậm chí lệch lạc. Đó là ưu điểm và cũng là một bước tiến của bản tổng kết này so với nhiều bản tổng kết trước đây.
Tuy nhiên, trong bản góp ý này, tôi sẽ không đi sâu vào những ưu điểm. Thiết nghĩ hữu ích hơn là lưu ý một số khía cạnh, một số vấn đề để các đồng chí tham khảo và hoàn thiện bản tổng kết tốt hơn.
Chúng ta biết, sau một chặng đường dài phát triển, Đại hội X sắp tới mang một sứ mệnh rất nặng nề là: lái con thuyền Việt Nam như thế nào trong dòng chảy lớn của sự phát triển thế giới trước mắt. Bây giờ chúng ta không thể chỉ đặt ra vấn đề của Việt Nam như chuyện trong nhà, mà là chuyện ganh đua với thế giới để tồn tại và phát triển.
Một lần nữa, thử thách lớn của lịch sử lại đặt ra trước Đảng ta. Sau khi làm cách mạng thành công, rồi tiến hành chiến tranh giải phóng, mở cửa và đổi mới, đến nay nước ta đứng trước một thách đố mới: phát triển nhanh và bền vững, hội nhập trong độc lập, đi tiếp trong nhịp chung của thế giới, làm sao không vấp ngã, không tụt hậu. Cuộc thách đố này trước hết đòi hỏi một sự bứt phá mạnh dạn về tư duy, về đường lối, về tổ chức, trong đó đặc biệt quan trọng là tổ chức Đảng và Hệ thống chính trị, về chính sách và biện pháp. Vì thế, vấn đề không chỉ đơn giản là nói như thế nào để mọi người vừa lòng, mà là vạch đường chỉ lối, tìm ra giải pháp tối ưu cho đất nước, cho dân tộc, cho chính Đảng ta.
Theo tinh thần đó, tôi xin đi thẳng vào mấy khía cạnh sau đây:
I. Cần đổi mới và làm rõ một số khái niệm được sử dụng trong báo cáo tổng kết
Trong bản tổng kết còn sử dụng khá nhiều khái niệm và thuật ngữ như một thói quen từ nhiều thập kỷ trước. Trong hoàn cảnh mới, với những kinh nghiệm lịch sử mà chúng ta nếm trải, thì cần nhìn lại những khái niệm đó một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Nhưng trong bản báo cáo này những khái niệm đó được coi như chuyện đương nhiên, không được phân tích, phê phán, không làm sáng tỏ thêm nội hàm, mà hầu như giữ nguyên như cũ cách nhìn, cách định hình đã có trước đây rồi đưa vào hệ thống quan niệm hiện nay của chúng ta. Có lẽ phải bắt đầu từ việc đổi mới trong tư duy về một số khái niệm đó. Tôi nghĩ, đây là việc không đơn giản, nhưng nhất thiết không được bỏ qua, lảng tránh một đòi hỏi có tính bức thiết và có ý nghĩa khởi đầu công tác lý luận. Vì như chúng ta đã từng xác định, để tiến tới Đại hội X, đánh dấu một cái mốc quan trọng cho sự bứt phá vươn lên của đất nước ta, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới, chúng ta phải nhìn lại chặng đường đã qua và định hướng cho chặng đường sắp tới.
Để hoàn thành nhiệm vụ đó, có một loạt khái niệm cần được xem xét lại, kỹ hơn, sâu hơn, cần phải rà soát lại nội dung của từng khái niệm đó.
Dưới đây là ví dụ cụ thể:
1. Từ bao nhiêu năm nay, lúc nào chúng ta cũng khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Chưa bao giờ chúng ta chủ trương làm trái chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao chúng ta vẫn mắc nhiều sai lầm? Nếu có một kim chỉ nam trên tay, thì khó có thể lạc hướng. Nhưng tại sao vẫn có những giai đoạn lạc hướng. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta không đọc được những mã số của nó. Vậy vấn đề bây giờ không còn là nêu lên những khái niệm chung chung, mà phải xác định rõ nội hàm của những khái niệm đó.
2. Về chủ nghĩa Mác-Lênin, lâu nay không có một đảng cộng sản hay công nhân nào nói rằng không đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, không kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng mỗi đảng đi theo một con đường khác nhau, đảng này lại còn phê phán đảng kia là làm sai những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vậy là có nhiều cách hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cách hiểu nào là đúng? Hai mươi năm trước, đầu thời đổi mới, chúng ta đã từng nêu ra là cần phải có nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác-Lênin và đã tiến hành nghiên cứu, phân tích xem trong chủ nghĩa Mác-Lênin điều gì trước đây đúng và đến nay vẫn đúng, điều gì trước đây đúng nhưng nay không còn phù hợp nữa, điều gì ngay từ trước đã có sai sót, điều gì chưa có cần bổ sung và phát triển.
Công việc rất quan trọng trên đây chưa hoàn thành và có phần bị ngừng lại giữa chừng. Nhiều quan niệm cũ lại tiếp tục chi phối.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất đa dạng, rất phong phú và sâu sắc. Xưa nay, chưa bao giờ có ai trong chúng ta nói rằng không theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trong thực tế ở rất nhiều nơi và đã rất nhiều lúc chúng ta vi phạm nghiệm trọng tư tưởng của Bác Hồ: đối với công thương gia, đối với trí thức, với các thân hào thân sĩ, đối với các công chức lưu dụng, đối với việc tôn trọng quyền tự nguyện của nông dân, đối với việc phê và tự phê trong Đảng, đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc, đối với sự thẳng thắn phê bình của Đảng trước nhân dân ....
Đã có nhiều công trình nghiên cứu rất tốn kém về chủ để tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng hình như cũng chưa công trình nào nhìn nhận một cách thẳng thắn xem chúng ta đã từng vận dụng đúng đắn tư tưởng gì của Bác Hồ và đã vi phạm những gì trong tư tưởng của Người. Nếu không làm rõ việc đó thì khó xác định được những tư tưởng nào làm chỗ dựa cho chúng ta trong chặng đường đi tiếp, mà rất có thể sẽ tiếp tục tình trạng lúc nào cũng nói rất hùng hồn là trung thành, là đi theo, là nắm vững, thậm chí còn tổ chức cả cuộc thi viết báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng có gì đảm bảo được rằng chúng ta không tiếp tục phạm sai lầm, làm trái với tư tưởng đó? Đã có công trình nghiên cứu nào tiến hành nghiên cứu một cách trung thực, khách quan và với phương pháp khoa học để đánh giá được thực chất những hoạt động và cách tuyên truyền, cổ động nói trên chưa?
4. Về giai cấp công nhân Việt Nam, chúng ta thường nói như một công thức rằng Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Nhưng cho đến nay, khái niệm giai cấp công nhân được xác định như thế nào? Giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ Pháp thống trị, giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ khác nhau ở chỗ nào? Trong điều kiện kinh tế tri thức, kinh tế thị trường, thì giai cấp công nhân có những đặc điểm gì mới, thái độ chính trị thế nào, lòng căm thù giai cấp, sức chiến đấu giai cấp có khác gì trước? Ngày nay không còn có thể tiếp tục nói chung chung về giai cấp công nhân Việt Nam. Hiểu về một giai cấp không rõ, thì khó thấy, khó biết được đội tiền phong của giai cấp đó là gì và phải làm gì.
Ngay cả khi nhiệt tình cách mạng là có thật, thì chúng ta vẫn cần nhớ rằng: Lênin đã từng nhắc đến một kiểu người đang đứng trong đội ngũ cách mạng song đang làm hại cách mạng bởi: “Nhiệt tình cách mạng cộng với dốt nát bằng sự phá hoại”. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta, đã có không ít trường hợp sự nghiệp phát triển kinh tế bị “phá hoại” bởi những loại nhiệt tình như vậy.
5. Bác Hồ đã nói rõ trong Đại hội II, “vì Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên Đảng phải là Đảng của dân tộc”. Đó là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Chúng ta có theo tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh không?
Nếu không làm rõ những khái niệm và tư tưởng trên đây, cứ lẩn tránh thì chúng ta lại tiếp tục sử dụng những cách xác định mơ hồ, chung chung, dựa vào một kim chỉ nam mơ hồ, làm sao tránh được những sai lầm như trước đây chúng ta đã mắc, và rất có thể lại như trước đây, nói một đường, thực tế làm một nẻo. Thực tế là trong một thời gian khá dài, Đảng dường như không phải là của giai cấp công nhân hiện nay. Những gì mà chúng ta dạy, chúng ta nói về bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân mà Đảng là tiêu biểu đã dần mất đi nhiều. Giai cấp công nhân trong thực tế không biết và không có quyền được biết đội tiên phong của mình đang làm gì.
6. Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đường, làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến cái công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo được dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do dân chủ của mọi công dân đã được qui định trong Hiến pháp của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
7. Trong bản báo cáo, có rất nhiều chỗ đã sử dụng khái niệm “tránh chệnh hướng”. Đây cũng là một khái niệm thường xuyên được sử dụng, song nội dung của nó thì lại được vận dụng rất tuỳ tiện, thậm chí thô thiển và thô bạo khi dựa vào một nội dung có phần mơ hồ, thiếu xác định để thực thi thói quen độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tuỳ tiện quy kết. Vấn đề thực ra có thể là rất cụ thể và sòng phẳng: Trên chặng đường trước mắt, thế nào là hướng và thế nào là chệch?
Kinh nghiệm lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp, một giải pháp từng bị coi là chệch hướng trong một thời gian dài, nhưng sau này lại thấy là đúng. Nhiều giải pháp coi là đúng hướng, thì lại vấp phải ách tắc, thất bại. Thí dụ: Khi tiến hành cải tạo tư sản, những người muốn chủ trương duy trì kinh tế nhiều thành phần đều đã từng bị coi là đi chệch hướng. Việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư nhân lúc đó được coi là đúng hướng. Khi tiến hành hợp tác hoá, ai muốn duy trì thích đáng kinh tế nông dân cá thể cũng bị coi là chệch hướng. Làm ăn tập thể, đưa các hợp tác xã lên cấp cao (một cách gò ép), đi vào kế hoạch Nhà nước tập trung, thu mua theo giá Nhà nước và theo chỉ tiêu của Nhà nước đã từng được coi là con đường duy nhất đúng hướng. Sau một thời gian dài, phải trả giá rất nhiều, sự đúng hướng đó đi vào ngõ cụt đến mức không có khả năng đi tiếp theo cái “đúng hướng” đó nữa, thì mới tỉnh ngộ ra và mới thừa nhận rằng những điều tưởng là đúng hướng lại là chệch, và cái tưởng là chệch lại là đúng, mà hiện nay chúng ta đang đi theo.
Vậy thì trong số những cái đang được gọi là đúng hướng và chệch hướng mà chúng ta dự kiến trước mắt, có những căn cứ khoa học nào để xác định, hay vẫn chỉ là những vũ đoán duy ý chí và tuỳ tiện. Tất cả những vấn đề đó cần phải nghiên cứu rất kỹ, không thể khẳng định chung chung, nếu không chúng ta rất dễ gặp lại những ách tắc, trì trệ, đồng thời rất dễ làm thui chột đi những sáng kiến, những khai phá để mở ra con đường phát triển.
8. Về khái niệm diễn biến hoà bình cũng vậy. Cho đến nay, tình hình thế giới thay đổi rất nhiều. Những nước phương Tây điều chỉnh chủ trương, chính sách và biện pháp của nó hàng tháng, hàng năm. Không nên dùng một khái niệm chung chung, trừu tượng như thế để lượng định những nguy cơ từ phía các nước phương Tây.
Theo tôi hiểu và qua trao đổi với những người bạn quốc tế, đặc biệt là một vài người bạn có lúc ở cùng cảnh ngộ với ta trong khối ASEAN đã hoặc đang ở trên những cương vị lãnh đạo cho phép họ nhìn nhận vấn đề một cách tỉnh táo và khách quan xuất phát từ bài học kinh nghiệm của chính họ và dân tộc họ đã trải qua, trao đổi với nhiều anh chị em trí thức trong nước và ở nước ngoài có hiểu biết và nhất là có sự tha thiết muốn góp phần vào sự phát triển đất nước, người ta nói với tôi rằng: hiện nay, trong các chiến lược của các nước phương Tây không còn mấy ai dùng đến khái niệm diễn biến hoà bình đối với các nước xã hội chủ nghĩa.
Bối cảnh của tình hình mới mà chúng ta đang phải đương đầu là cực kỳ phức tạp. Những thế lực thù địch trăm phương nghìn kế phá hoại sự nghiệp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong đó, có những thủ đoạn cực kỳ thâm hiểm và tinh vi. Đề cao cảnh giác và luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là nhiệm vụ thường trực của chúng ta. Song nội dung của tinh thần cảnh giác đó cũng không thể cực đoan, một chiều theo cách phân tích địch ta quá đơn giản và thiếu nhạy bén chính trị, mà phải luôn luôn có cái nhìn toàn cuộc, nhìn rõ thế và lực của ta hiện nay, cũng như hiểu cho sâu mối tương tác giữa các thế lực ở khu vực và trên thế giới.
Khái niệm “diễn biến hoà bình” mà ta đang thường xuyên sử dụng chưa thể hiện đủ tinh thần cảnh giác đó, ngược lại, có thể làm biến dạng ý thức cảnh giác, gây nên những phản cảm làm trở ngại cho chính việc nâng cao tinh thần cảnh giác. Tôi nghĩ, chúng ta phải thật tỉnh táo nhìn nhận lại vấn đề này, nhất là khi chúng ta đã dõng dạc tuyên bố với thế giới: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, muốn là đối tác đáng tin cậy của tất cả mọi người.
Đây sẽ là một vấn đề rất gay cấn trong tranh luận, song không thể lảng tránh việc đặt lên bàn nghị sự để bàn luận cho ráo riết, ra bắp ra khoai.
9. Về thái độ và quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chúng ta vẫn tiếp tục nói như một thói quen: Một mặt nói rằng xoá mọi sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đồng thời luôn luôn qui định kinh tế nhà nước phải là chủ đạo. Nếu đã qui định trước cái gì là chủ đạo, thì sao có thể nói được rằng mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng? Kinh tế nhà nước hiện nay rất yếu kém, nhiều khuyết tật. Một nền kinh tế nhiều thành phần, mà thành phần nhiều khuyết tật nhất, kém hiệu quả nhất lại là chủ đạo. Vậy thì nền kinh tế đó sẽ phát triển như thế nào và đi vào cuộc đua với thế giới này như thế nào? Những vấn đề đó chúng ta chưa phân tích đến nơi đến chốn, chỉ nhắc lại công thức như một thói quen để làm hài lòng những tư duy đường mòn bảo thủ, vừa muốn giữ lại cái cũ làm chỗ dựa, vừa bất lực trong việc giúp cho nền kinh tế được phát triển tối ưu.
10. Khi nói về những tệ nạn trong xã hội và vấn đề phẩm chất của Đảng viên, báo cáo vẫn chỉ nhắc lại những căn bệnh cố hữu là tham nhũng, quan liêu, phẩm chất sa sút. Đó quả là một nguy cơ lớn. Nhiều Đảng đã tan rã vì căn bệnh này. Nhưng đến lúc này thì sẽ là hoàn toàn không đủ nếu chỉ nhắc lại chung chung rằng đang có những căn bệnh đó. Phải chỉ ra những nguyên nhân sâu xa của căn bệnh, trên cơ sở đó phải chỉ ra những biện pháp để sửa chữa, đây là điều quan trọng hơn. Bây giờ không còn là chuyện chẩn bệnh, mà phải mổ xẻ để tìm ra nguyên nhân và cách chữa.
Nói về sa sút phẩm chất đảng viên, cần chỉ ra sự khác biệt hết sức cơ bản về vị trí và hình thức hoạt động khi Đảng là Đảng cầm quyền trong xây dựng đất nước ở thời bình so với thời kỳ hoạt động bí mật và hoạt động công khai trong thời chiến. Khi nắm quyền lực trong tay, khi ngồi trên ghế quyền lực (Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị), nếu không có ý thức tu dưỡng rèn luyện phẩm chất của người cộng sản, nhất là Đảng không có cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm soát phẩm chất đảng viên, thì sự tha hoá trong không ít đảng viên có chức, có quyền là điều không thể tránh khỏi. Cơ chế phù hợp đó chỉ có thể được xây dựng và thực thi trên căn bản nguyên tắc của Đảng được qui định rõ trong điều lệ của Đảng phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Đáng tiếc là, trong một thời gian dài, một số nguyên tắc cơ bản đó đã bị vi phạm ngày càng trầm trọng. Rõ nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng, trong sinh hoạt Đảng, trong triển khai mọi hoạt động công tác của Đảng. Chỉ xin nêu một ví dụ dễ thấy nhất về sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng: đó là cách tổ chức và triển khai Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Cách tổ chức và triển khai ấy, trên thực tế đã làm giảm sút, rồi đi đến vi phạm một nội dung mấu chốt và cực kỳ quan trọng của Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt Đảng và các hoạt động lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ)”.
Qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và đề bạt cán bộ là công việc cần thiết, phải tiến hành thường xuyên và đương nhiên phải thể hiện trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội các cấp cho đến Đại hội toàn quốc của Đảng. Trong quá trình quy hoạch và bố trí cán bộ thì việc sắp xếp nhân sự cho bộ máy của Đảng ở các cấp phải có cơ cấu hợp lý cũng là chuyện tất yếu. Song “cơ cấu” không đồng nghĩa với việc tuỳ tiện vi phạm Điều lệ Đảng khiến cho trên thực tế gần như đại hội chỉ còn là thủ tục, khiến cho sức mạnh của Đảng bị giảm sút vì sự chọn lọc, tuyển lựa cán bộ để đưa vào các cấp uỷ không công khai, minh bạch, trong quá trình dân chủ thảo luận của đại hội các cấp. Vì thiếu dân chủ cho nên sự tập trung đã trở thành tập trung quan liêu, dẫn tới sự chuyên quyền, độc đoán của một số tập thể nhỏ.
Đây chính là nguy cơ dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng và sự sa sút phẩm chất đảng viên. Hệ quả của nó lá sự bị động tùy thuộc của cấp dưới tuân theo mọi quyết đoán từ bên trên, tạo ra tâm lý lựa gió xoay chiều cốt cho được việc theo ý của trên. Sự dối trá cũng khởi nguồn từ đây. Căn bệnh hình thức phô trương, bệnh thành tích phát triển từ đây. Sự tha hoá, biến chất của không ít cán bộ, đảng viên dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng, đánh mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng.
Thực trạng này đang diễn ra nghiêm trọng, không thể không nghiêm khắc vạch ra để tìm cách khắc phục. Mà giải pháp cơ bản nhất là trở lại với nguyên tắc của Đảng, kiên quyết thực hành dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ mở rộng dân chủ mà thực hiện sự tập trung. Có dân chủ thì mới có tập trung, và tập trung trên nền tảng dân chủ sẽ không là tập trung quan liêu dẫn đến chuyên quyền vượt mọi quyền hạn và quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trở lại với nguyên tắc Đảng cũng có nghĩa là thực hiện “Tư tường Hồ Chí Minh” về xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phẩm chất cộng sản cho từng đảng viên, từ cơ sở cho đến Trung ương. Đây chính là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp của Đảng ta hiện nay. Làm thế nào trong nội dung tổng kết về lý luận phải dành phần thích đáng cho công tác xây dựng Đảng. Thực ra thì cũng đã có nghị quyết về vấn đề này. “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, là điều thường xuyên được nêu lên trong các diễn văn, các báo cáo, trên các phương tiện truyền thông, cấn có sự tổng kết nghiêm túc.
(còn tiếp)