(tiếp theo)
II. Mấy vấn đề về phương pháp tư tưởng
Tất cả những vấn đề kể trên, suy cho cùng, là những biểu hiện cụ thể của phương pháp tư tưởng. Nghĩ cho kỹ, thì phương pháp tư tưởng của Đảng đã và đang quyết định đường lối, chủ trương, chính sách và biện pháp đúng hay sai. Nhìn lại toàn bộ lịch sử đấu tranh của Đảng ta, bằng những trải nghiệm của bản thân mình trong 65 năm chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, có dịp tĩnh tâm suy nghĩ và tự tìm tòi, phân tích, tôi hiểu được rằng, suy cho cùng, những thành tựu cũng như những thất bại mà Đảng gặp phải, dường như phụ thuộc vào hai loại phương pháp tư duy khác nhau.
Trong nhiều giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, phương pháp tư duy “tả khuynh”, chủ quan, duy ý chí đã từng giữ vai trò chủ đạo. Chỉ khi nào phương pháp tư duy đó vấp phải những khó khăn, thất bại thì nó mới tạm thời rút lui, để luồng tư duy khách quan, giàu trí tuệ đóng vai trò chỉ đạo, sửa chữa sai lầm và khắc phục hậu quả. Đó chính là những giai đoạn chúng ta đạt được những thành công rực rỡ trong đấu tranh cách mạng cũng như trong phát triển kinh tế.
Thử điểm lại các giai đoạn lịch sử, thấy rất rõ diễn biến đó.
(Thời kỳ mới thành lập Đảng, xu hướng “tả khuynh” đã là một động cơ của Xô Viết Nghệ Tĩnh và dẫn tới thất bại, lực lượng Đảng bị tổn thất nghiêm trọng. Từ sau đó, Nguyễn Ái Quốc định hướng cho Đảng, đến khi có thắng lợi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương để phục hồi sức mạnh của Đảng. Từ đó, Đảng lại phát triển.
(Đến Nam Kỳ khởi nghĩa, lại một xu hướng manh động, “tả khuynh” đã dẫn tới thất bại nghiêm trọng và lực lượng của Đảng bị tổn thất rất nặng nề.
(Bác Hồ về Pác Bó, cũng vừa là lúc có chủ trương khởi nghĩa non, Bác đã kịp thời ngăn chặn lại. Bác điều chỉnh lại đường lối, chủ trương, xây dựng mặt trận Việt Minh, sử dụng mọi lực lượng để phát triển phong trào cách mạng, mở các lớp học, phát triển phong trào tới mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng vùng giải phóng, không manh động, không nhấn mạnh nội dung giai cấp. Từ đó phong trào cách mạng phát triển rất mạnh và dẫn tới Cách mạng tháng Tám thành công.
(Trong kháng chiến chống Pháp, với chủ trương đại đoàn kết do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, Đảng ta đã huy động được sức mạnh toàn dân, không những kháng chiến thắng lợi mà kiến quốc cũng thành công. Cứ nhìn vào thành phần Chính phủ kháng chiến do Bác Hồ đứng đầu cũng thấy rõ được tầm nhìn xa trông rộng của người lãnh tụ nhân dân. Có thể nói, mãi về sau nay, tuy sự nghiệp cách mạng ngày càng tiến triển thuận lợi, nhưng chưa bao giờ sự tập hợp và phát huy lực lượng nhân sĩ, trí thức lại được rỗng rãi và giàu sức thuyết phục như cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm. Kế tục được bài học của Bác Hồ, trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Xứ uỷ Nam Bộ và sau đó là Trung ương cục do đồng chí Lê Duẩn đứng đầu đã biết cách tập hợp lực lượng, phát huy được vai trò của các tầng lớp nhân sĩ trí thức ngoài Đảng đi kháng chiến cùng các tầng lớp nhân dân khác, gây được tiếng vang, góp phần to lớn vào sự nghiệp kháng chiến. Thế nhưng, bài học lớn đó rồi không được tiếp tục mở rộng ra trong quá trình phát triển của các giai đoạn sau.
(Từ 1951 trở đi, xu hướng “tả khuynh” lại có chiều phát triển mạnh do sự tác động của các chuyên gia Trung Quốc. Kết quả là chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất đã làm cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta gánh chịu những tổn thất vô cùng nặng nề. Chính từ bài học cay đắng đó, cùng với việc xử lý kỷ luật một số cán bộ cao cấp của Đảng, xu hướng “tả khuynh” lại tạm thời lắng xuống. Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương khoá II tháng 12 năm 1956 của Đảng đã phê phán thẳng thắn xu hướng “tả khuynh” này.
(Từ đó, kinh tế dần dần phục hồi, nội bộ Đảng được củng cố, những vết thương của sai lầm dần dần được hàn gắn. Chính đây là thời kỳ kinh tế miền Bắc phát triển tốt nhất. Nhưng sau đó không bao lâu, xu hướng “tả khuynh” trỗi dậy đẩy tới những cuộc cải tạo ồ ạt đối với công thương nghiệp và nông nghiệp. Kết quả thế nào thì chúng ta đều biết. Khắc phụ cho được hậu quả của đường lối “tả khuynh”, giáo điều đó khó khăn như thế nào thì cũng đã là bài học cho tất cả chúng ta.
(Sau khi giải phóng miền Nam, đã từng có nhiều bộ óc suy nghĩ về việc duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế mở, hợp tác quốc tế, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, với Đại hội IV, xu hướng “tả khuynh”, chủ quan duy ý chí lại thắng thế để đưa ra những quyết định về đường lối và chủ trương sai. Cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, cải tạo sỹ quan của chính quyền cũ kéo dài quá lâu, đưa dân đi kinh tế mới bằng biện pháp cưỡng bức ....
Đó là những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng và ách tắc, gây những thiệt hại rất lớn cho kinh tế kể từ 1977 trở đi. Thật là đau đớn khi nghĩ lại, sự nghiệp giải phóng dân tộc được hoàn thành trọn vẹn, thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác ở miền Nam vẫn còn nguyên kết cấu hạ tầng và tiềm năng về kinh tế hàng hoá, thế nhưng hàng vạn người phải bỏ nước ra đi. Hiện tượng “di tản”, “thuyền nhân” cần được nhìn nhận như là những vết thương trên cơ thể đất nước, để lại những di chứng trong tâm hồn của không ít đồng bào ta.
(Khi nền kinh tế và đời sống của nhân dân đã đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, “tả khuynh” mới bộc lộ rõ tính bất lực của nó. Đến lúc đó thì những tư duy khách quan, trí tuệ, tỉnh táo hơn đã cứu vớt từng mảng của nền kinh tế. Đó chính là những cuộc phá rào ở các cơ sở và phá rào trong cả đường lối, chính sách ở trung ương.
(Nhưng từ 1983, sau khi chỉ mới “hé” cửa, bung ra được một chút, xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại muốn gò lại nền kinh tế, với nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương khoá V, lập lại kỷ cương trong phân phối lưu thông, hàng loạt MEX đã bị dẹp bỏ, tình trạng ngăn sông cấm chợ lại xuất hiện, cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp lại có xu hướng phục hồi.
(Đến Đại hội VI, những khuyết tật của xu hướng bảo thủ duy ý chí đã được phê phán một cách gay gắt không kém gì Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương năm 1956. Và nhờ đó, kinh tế lần lượt đạt được những bước tháo gỡ rất căn bản. Phải nói rằng, Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước phát triển đột phá trong tư duy lý luận của Đảng, mở đầu bằng đổi mới tư duy kinh tế. Nhờ bước đột phá về tư duy lý luận do dám nhìn thẳng vào sự thật, mạnh dạn nói lên sự thật, dũng cảm phân tích phê phán những sai lầm, nhất là bệnh giáo điều “tả khuynh”, đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng và kéo dài.
(Nhưng từ sau 1989, sau khi thu được những thắng lợi rất lớn về kinh tế, từ sự sụp đổ của Đông Âu và sau đó là sự sụp đổ của Liên Xô thì xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại phục hồi. Thay vì từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô mà rút ra bài học cho bản thân mình, nhằm đưa tới quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp Đổi Mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu và bao cấp dẫn đến sự suy kiệt của nền kinh tế vốn chứa đựng những tiềm năng có thể phục hồi và vươn lên sau 1975, mở rộng dân chủ để tạo ra sự đồng thuận xã hội mới làm động lực cho sự phát triển, lại tự thoả mãn với chính mình trong những luận điểm có phần tự mãn chủ quan là Đảng ta vững vàng về lập trường quan điểm nên mới giữ được thành tựu như đã có (không như Đông Âu và Liên Xô).
Dưới cái vỏ bọc của lập trường, quan điểm đó, khuynh hướng “tả” đã dẫn đến sự co lại, kìm hãm tiến trình Đổi Mới mà Đại Hội VI đã khởi động. Hiện tượng chững lại đó trong một số lĩnh vực do được dẫn dắt bởi quan điểm nói trên đã khiến cho chúng ta không tận dụng được đúng mức những thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình kinh tế, thúc đẩy các hoạt động khác của đất nước. Đã xuất hiện quan điểm lo ngại Việt Nam tham gia vào ASEAN, bảo lưu ý kiến không tham gia năm 1995. Không ít những người tự coi là lập trường, quan điểm vững gây không ít cản trở cho sự phát triển bằng những lời phát biểu như: “coi chừng chệch hướng”, “đổi mới nhưng không đổi màu”, “hoà nhập mà không hoà tan” ....
Hậu quả vô hình, không đo lường được đó còn kéo dài, chỉ phối cho đến nay khiến cho lợi thế cạnh tranh bị sút giảm, nhịp độ tăng trưởng chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển của đất nước; khoảng cách tụt hậu ngay trong khu vực ASEAN rộng thêm.
Dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, phải chỉ ra được nguyên nhân và tác hại của phương pháp tư tưởng “tả khuynh”, giáo điều nói trên, tìm cách khắc phục nó, đó phải là công việc không thể lẩn tránh của công tác tổng kết và lý luận. Gợi lên những vấn đề nói trên, tôi muốn chúng ta cố gắng nhìn lại cả quãng đường Đảng ta đã đi qua, tìm ra nguyên nhân thực chất của những sai lầm đó.
Lưu ý đến đặc điểm này để khắc phục và tỉnh táo trước những nguy cơ vấp lại những sai lầm như đã từng vấp. Những vấp váp, trì trệ và sự chững lại trong tiến trình Đổi Mới, nguyên nhân của nguyên nhân có phải chính là xu hướng giáo điều “tả khuynh” vẫn còn tồn tại, muốn co kéo, kiềm chế những tiềm lực phát triển, nhưng lại mang danh nghĩa bảo vệ Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, chống chệnh hướng.
Công cuộc đổi mới 20 năm qua về thực chất không gì khác chính là sự khắc phục xu hướng này. Khi nào chúng ta nhận thức ra được hệ luỵ của tư tưởng “tả khuynh” và phê phán xu hướng đó thì cả kinh tế lẫn chính trị đều có bước khởi sắc. Khi nào xu hướng này trở lại thế lấn lướt thì sự lệch lạc và trì trệ lại bắt đầu. Về thực chất đó cũng chính là một sự chệch hướng, mà tác hại của nó không kém những chệch hướng khác. Đó là bài học kinh nghiệm lịch sử cần được mạnh dạn đặt ra và phân tích thật cặn kẽ và sâu sắc, đó chính là yêu cầu không thể lẩn tránh của công tác tổng kết.
(còn tiếp)