Trong buổi họp lấy ý kiến về dự án Luật Đầu tư (sửa đổi) diễn ra vào sáng ngày 16/10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho rằng không nên cấm hoạt động “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” mà cần bổ sung quy định về điều kiện kinh doanh dịch vụ đòi nợ để đảm bảo quản lý nhà nước chặt chẽ đối với loại hình kinh doanh này.
Đòi nợ hay siết nợ?
Trong thực tế hiện nay có một số người chây ì trả nợ và vì vậy chủ nợ phải sử dụng các công ty đòi nợ thuê nhưng rất đáng tiếc là các công ty đòi nợ thuê này hoạt động có những thủ đoạn ngoài pháp luật như khủng bố hoặc có những hoạt động phạm pháp một cách nghiêm trọng. - TS. Lê Đăng Doanh
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do, Luật sư Nguyễn Văn Hậu, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài Luật gia Việt Nam giải thích rõ hình thức “kinh doanh dịch vụ đòi nợ” đã có từ năm 2007. Chính phủ và Bộ Tài chính đã có rất nhiều văn bản quy định chỉ có những doanh nghiệp khi có giấy phép kinh doanh đòi nợ mới được phép đòi nợ dưới sự quản lý của Nhà nước. Ông nhận định:
“Đòi nợ thuê không phải là tội phạm như mọi người vẫn lầm tưởng mà nó là một dịch vụ đòi nợ, một dịch vụ có tính chất đặc biệt được pháp luật Việt Nam công nhận và điều chỉnh. Đây là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện thuộc danh mục Ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong Luật Đầu tư 2014 của Việt Nam. Hoạt động kinh doanh dịch vụ đòi nợ thì chính phủ ban hành Nghị định 104/2007 có quy định chỉ được thực hiện đối với những khoản nợ khi mà khoản nợ đủ căn cứ để đòi nợ hợp pháp hoặc quá hạn thanh toán.”
Vẫn theo Luật sư Hậu, các dịch vụ đòi nợ phải xử lý đòi nợ phù hợp theo các quy định của pháp luật và hoạt động đòi nợ này thực hiện theo hợp đồng giữa người cho vay và người đi vay.
Trước đó, vào đầu tháng 10/2019, Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã đề xuất Bộ Tài chính tham mưu Chính phủ đưa loại hình hoạt động đòi nợ thuê vào danh mục ngành nghề cấm kinh doanh vì cho rằng nhiều vụ đòi nợ thuê gần đây đã biến tướng mang tính chất “xã hội đen”, khủng bố tinh thần, cưỡng bức con nợ...
Vậy liệu nên giữ hay nên bỏ loại hình kinh doanh thu nợ đang là vấn đề gây nhiều tranh cãi hiện nay.
Từ Hà Nội, Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, chuyên gia tài chính và thị trường cho rằng:

“Hiện nay vấn đề đòi nợ thuê thì nó gây nhiều vấn đề như mất đi trật tự của xã hội, vi phạm đạo đức. Thế nhưng trong kinh tế thị trường thì nó là một cái nghề. Vậy thì khi nó bị sai như vậy thì phải chấn chỉnh cho đúng, pháp luật phải nghiêm minh trừng trị những vi phạm, về mặt đạo đức và xã hội.”
Vẫn theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Ngô Trí Long, cần chỉnh sửa lại những văn bản và nghị định cho vấn đề này theo đúng luật pháp vì theo nguyên tắc cung cầu, có cầu thì mới có cung. Do đó cần xem những mặt trái, bất cập để chỉnh sửa, vì nếu không thì những dịch vụ sử dụng “luật rừng” khi đòi nợ sẽ gây mất trật tự xã hội.
Nên có biện pháp chế tài
Giải thích rõ hơn về tình trạng này ở Việt Nam, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương nhận định:
“Trong thực tế hiện nay có một số người chây ì trả nợ và vì vậy chủ nợ phải sử dụng các công ty đòi nợ thuê nhưng rất đáng tiếc là các công ty đòi nợ thuê này hoạt động có những thủ đoạn ngoài pháp luật như khủng bố hoặc có những hoạt động phạm pháp một cách nghiêm trọng.”
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cũng cho rằng rõ ràng là cần phải hạn chế vi phạm pháp luật và tiêu cực của đòi nợ thuê, nhưng cấm hay là nên cho hoạt động trong một khuôn khổ pháp luật được hoàn thiện hơn thì chúng ta nên nghiên cứu từ thực tiễn. Tuy vậy, ông cũng đưa ra giải pháp:
“Theo tôi thì cần có sự tổng kết về thực tế đòi nợ thuê ở Việt Nam hiện nay diễn ra như thế nào và những vấn đề mà nó đã xảy ra, các đụng độ, vấn đề về an ninh. Qua đó cũng nêu lên những hạn chế về pháp luật rồi tổ chức một cuộc hội thảo, sau đó có kiến nghị và ý kiến. Khi có hai luồng ý kiến khác nhau thì tôi nghĩ cách tốt nhất chúng ta nên ngồi lại thảo luận và phân tích một cách khoa học.”
Việc đòi nợ thuê nếu về lý thuyết thì rất hay, có cơ chế, tổ chức thực hiện. Nhưng trên thực tế đất nước mình trên khá nhiều phương diện mà quản lý xã hội còn lỏng lẻo thì nó dễ trở thành nơi người ta lợi dụng và tính chất mafia có môi trường để nảy sinh. - Dương Trung Quốc
Còn theo Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc, hiện tại trong thông tin ông nhận được hoàn toàn không nói là không nên cấm mà luận chứng của bên trình lên Ủy ban công vụ còn nhiều điểm chưa rõ ràng. Ông tiếp lời:
“Tôi nghĩ việc đòi nợ thuê nếu về lý thuyết thì rất hay, có cơ chế, tổ chức thực hiện. Nhưng trên thực tế đất nước mình trên khá nhiều phương diện mà quản lý xã hội còn lỏng lẻo thì nó dễ trở thành nơi người ta lợi dụng và tính chất mafia có môi trường để nảy sinh. Vì thế tôi cho rằng ý thức của xã hội cũng rất e ngại. Đây là điểm khiến cho nhiều người băn khoăn. Một mặt nếu không có cơ chế ấy thì việc đòi nợ rất khó, nhưng giao phó cơ chế ấy thì người thực hiện có nghiêm chỉnh theo luật không thì đó lại là một câu hỏi chưa thể khẳng định được. Vì thế tôi cho rằng chắc phải tiếp tục được bàn, chứ nói thế không phải loại bỏ kiến nghị ấy.”
Hầu hết các chuyên gia khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do đều cho rằng không nên bỏ loại hình kinh doanh đòi nợ. Tuy nhiên, để hạn chế những biến tướng của hình thức kinh doanh này, Việt Nam cần phải bổ sung thêm nhiều điều khoản trong Luật Đầu tư, như đề nghị của Luật sư Nguyễn Văn Hậu:
"Tôi thấy nếu đưa đây vào danh mục cấm đầu tư kinh doanh như cái đề nghị thì nó chưa ổn lắm vì chúng ta phải quy định những điều mà người đi đòi nợ thuê không được làm. Nếu đi đòi nợ mà họ dẫn ra xô xát, đánh nhau hoặc xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, quyền tự do các nhân, quyền tài sản, quyền dân sự khác của khách nợ, đây là những quy định cấm trong hoạt động đòi nợ thuê. Tôi cho rằng nếu quy định có thiều những điều này thì chúng ta phải bổ sung và phải có chế tài nghiêm kh ắ c đối với những người lợi dụng việc này (đòi nợ thuê) để cưỡng đoạt tài sản, gây thương tích thì căn cứ vào quy định tố tụng hình sự để xử những tội này theo quy định Bộ luật Hình sự Việt Nam."
Đại biểu Dương Trung Quốc cũng cho rằng đối với bất kỳ luật nào cũng vậy, bên cạnh cơ chế cho họ quyền hạn thì cũng phải giám sát hết sức chặt chẽ và nghiêm túc vì những việc làm này rất dễ đi đến những thỏa thuận đằng sau luật, kể cả giữa người thuê và người thực hiện hay giữa người nợ và người đòi nợ nên có thể nhiều yếu tố tiêu cực xảy ra. Vì vậy ông cho rằng:
“Tôi nghĩ nó cần phải được nghiên cứu kỹ và nếu rõ ràng không thực hiện được, chưa đủ điều kiện thực hiện thì việc gác lại cũng có khả năng xảy ra như cách đặt vấn đề của TPHCM. Vấn đề còn lại là khắc phục nó bằng cái gì, thực hiện nó bằng cách gì để thay thế? Có lẽ đây vẫn là bế tắc!”