Ủy ban thường Vụ Quốc hội vào ngày 8/4 đã có cuộc họp bất thường để xem xét gói 62.000 tỉ hỗ trợ 20 triệu người dân chịu tác động bởi đợt dịch COVID-19 hiện nay. Cuộc họp do Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân chủ trì.
Chính phủ đã đề nghị Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất về nguyên tắc triển khai thực hiện ngay gói hỗ trợ vừa nêu sau khi nghe báo cáo của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư Nguyễn Chí Dũng.
Theo báo cáo, có hàng triệu người lao động đã và đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19; trong trường hợp nếu dịch bùng phát mạnh hơn sẽ có khoảng 3,5 triệu lao động mất việc. Bộ Kế hoạch – Đầu tư ước tính 98% lao động khu vực du lịch, dịch vụ nghỉ việc; 78% lao động ngành vận tải, giày da, dệt may bị giảm việc, hoặc ngừng việc và 98% lao động hàng không tạm nghỉ việc.
Do đó, chính phủ sẽ hỗ trợ người dân trong 3 tháng và được chia theo 3 mức: thứ nhất là của người có công, gia đình chính sách 500.000 đồng/tháng, mức thứ hai là những người lao động tự do mất việc làm được 1 triệu/tháng, và mức thứ ba là mỗi hộ kinh doanh được trợ cấp 1,8 triệu/tháng.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đưa ra yêu cầu không được để xảy ra tình trạng trục lợi chính sách; đồng thời bà lưu ý sau khi các chính sách hỗ trợ người dân được ban hành, các đơn vị cần tổ chức thực hiện ngay đảm bảo đến tay người dân kịp thời để người dân yên tâm, giải quyết những khó khăn của cuộc sống nhất là trong mùa dịch này.
Giải thích rõ hơn về nội dung mới được thông qua này, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long, nguyên viện trưởng Viện Nghiên cứu thị trường giá cả Bộ Tài Chính cho hay:
“Mọi đối tượng trong xã hội không bỏ quên ai, đặc biệt những đối tượng yếu thế thì nhà nước vẫn chú ý. Trong đó có đối tượng phi chính thức: lao động với nhau bằng hợp đồng miệng, không ký kết hợp đồng; những người bán vé số; những người lao động tự do… thì việc thống kê, tính toán, thực hiện rất khó khăn, rồi thêm nguồn nhân lực, thời gian dài. Vậy thì những yếu tố này có ảnh hưởng đến tiến độ làm, có đúng và kịp thời cho người ta hay không, đúng mục tiêu không là việc chính phủ và quốc hội quan tâm. Đồng thời chính phủ cũng đề nghị trên cơ sở này cũng có vai trò của quốc hội giám sát lại gói hỗ trợ này.”
Còn theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương, bên cạnh việc xác định được thành phần đối tượng cần được hỗ trợ, việc tìm ra nguồn chi phí để hỗ trợ là một vấn đề quan trọng. Ông đưa ra đề xuất:
“Có lẽ ngân sách nhà nước Việt Nam hiện đã gặp khó khăn, bây giờ nỗ lực làm gói cứu trợ thế này đã là nỗ lực lớn, còn việc cứu trợ cho số đông đảo ở khu vực phi chính thức có lẽ cần có sự huy động mạnh mẽ từ nguồn người dân. Tôi nghĩ rằng hiện nay các hiệp hội, các tổ chức xã hội của Việt Nam cần hoạt động mạnh, tìm cách huy động các nguồn vốn trong xã hội để giúp đỡ những người này, số lượng đó rất lớn.”
Tại buổi họp ngày 8/4, Chính phủ đã đưa ra đề xuất dùng thêm Quỹ bảo hiểm thất nghiệp để hỗ trợ người dân, bên cạnh việc sử dụng ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cũng bày tỏ lo ngại rằng nếu dùng đến quỹ bảo hiểm sẽ gây khó khăn hơn nếu đại dịch kéo dài vì báo cáo chưa nêu rõ là ngân sách Nhà nước vay từ Quỹ hay xin ứng trước và cụ thể hơn về phương án hoàn trả.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế - tài chính độc lập cho rằng hiện nguồn kinh phí sẽ đến từ hai cấu phần:
“Cấu phần thứ nhất dĩ nhiên là nguồn thu của chính phủ từ thuế hay những nguồn như cả những doanh nghiệp nào đang hoạt động thì vẫn phải đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp. Ngay cả tiền thuế của người dân cũng được dùng để chi trả. Yếu tố thứ hai đóng góp cho vấn đề chi trả là chi phí của chính phủ, trong đó có chi phí thường xuyên và chi phí đầu tư. Đặc biệt chi phí đầu tư có thể hoãn lại những chương trình nào chưa thật sự cần thiết cho quốc gia để dùng số tiền dành cho những quỹ đó, những chương trình, dự án đó để chi trả cho bảo hiểm. Có nhiều nguồn, nhưng dĩ nhiên những nguồn đó đều có giới hạn của nó.”
Theo kinh nghiệm lâu năm ở Viện Nghiên Cứu Quản Lý Kinh Tế Trung Ương, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng nếu tình trạng dịch bệnh COVID-19 kéo dài hơn, đến tháng 5, 6 vẫn chưa chấm dứt thì lúc đó sẽ có hướng giải quyết khác cho nguồn chi phí hỗ trợ. Ông nhận định:
“Chắc chắn là chính phủ sẽ tăng bội chi ngân sách và tăng nợ công. Tôi nghĩ đây là một tình huống bất khả kháng nên tôi hy vọng Quốc hội sẽ chuẩn y để chính phủ có thể tăng thêm nợ công và bội chi ngân sách để trợ cấp cứu giúp về mặt xã hội và đối với người dân.”
Vẫn theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, biện pháp này dĩ nhiên sẽ ảnh hưởng đến nền kinh tế sau này, nhưng ông hy vọng kinh tế Việt Nam sẽ từ từ hồi phục nếu vượt qua được dịch bệnh và tình hình xã hội vẫn ổn định, sức khỏe người dân được đảm bảo.
Theo ước tính của Bộ Kế hoạch – Đầu tư báo cáo vào ngày 8/4, cả nước hiện có khoảng 19% doanh nghiệp đã tạm dừng hoạt động, thu hẹp quy mô.
Do đó, Tiến sĩ Doanh cũng cho rằng đứng trước những khó khăn về kinh tế do coronavirus đem lại, ngoài hỗ trợ lao động, chính phủ cũng cần giúp đỡ những chủ lao động:
“Tuy vậy cũng cần phải có những biện pháp để cứu các doanh nghiệp để doanh nghiệp trụ được, có thể tự mình trang trải, nuôi sống người lao động. Có thể đấy là biện pháp mà sắp tới đây, chính phủ sẽ xem xét và bổ sung.”
Vào ngày 3 tháng 4, Bộ Tài Chính Việt Nam có công văn gửi Thủ tướng về việc tiếp thu, giải trình ý kiến tham gia vào dự thảo nghị định gia hạn thời gian nộp thuế tiền thuê đất cho doanh nghiệp. Theo công văn này có thêm 4 nhóm đối tượng được gia hạn thời gian nộp thuế và tiền thuê đất với số tiền lên đến 180.000 tỷ đồng.