Báo cáo Bộ Giao thông- Vận tải gởi Quốc hội hôm 21 tháng 5 năm 2020 về các công trình chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư, có 6 dự án gồm 1 dự án đường bộ là cao tốc và 5 dự án đường sắt đô thị. Đáng chú ý, Bộ Giao thông vận tải cho biết, dịch Covid-19 đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ đường sắt Cát Linh - Hà Đông, khi các nhân sự của tổng thầu, tư vấn giám sát, tư vấn đánh giá an toàn hệ thống vẫn chưa thể sang Việt Nam.
Tuy nhiên trước đó, dù hạn chế người nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam để phòng chống dịch Covid-19, vào ngày 5 tháng 3 năm 2020, Ban Chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 đã đồng ý đề xuất của Bộ Giao thông- Vận tải, cho 43 chuyên gia Trung Quốc tham gia dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông được nhập cảnh vào Việt Nam. Nhưng những người này phải được kiểm dịch y tế và được cách ly tại khách sạn theo đề nghị của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội.
Nay Bộ Giao thông- Vận tải lại lấy lý do các nhân sự của tổng thầu, tư vấn giám sát, tư vấn đánh giá an toàn hệ thống của dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông vẫn chưa thể sang Việt Nam, vì dịch Covid-19.
Dự án Cát Linh - Hà Đông cứ kéo dài mãi và đến bây giờ vẫn chưa biết bao giờ mới có thể đưa vào sử dụng được. Dịch Covid-19 có thể gây một tác động nhất định, nhưng tôi nghĩ về cơ bản là vấn đề nhà thầu đã kéo dài quá lâu.<br/>-TS. Lê Đăng Doanh
Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do liên quan vấn đề này hôm 22 tháng 5 năm 2020, nhận định:
“Tôi rất là sốt ruột về dự án Cát Linh - Hà Đông cứ kéo dài mãi và đến bây giờ vẫn chưa biết bao giờ mới có thể đưa vào sử dụng được. Dịch Covid-19 có thể gây một tác động nhất định, nhưng tôi nghĩ về cơ bản là vấn đề nhà thầu đã kéo dài quá lâu.”
Trước đó vào tháng 2 năm 2020, Ông Đường Hồng, Giám đốc Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông, là cán bộ dự án phía Trung Quốc có hộ chiếu công vụ nên vẫn được vào Việt Nam. Đến ngày 9 tháng 3 năm 2020, ông Đường Hồng đã hết thời hạn cách ly và trở lại làm việc.
Ông Trần Bang, một kỹ sư xây dựng chuyên ngành cầu đường, người rất quan tâm đến dự án này, khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do qua tin nhắn hôm 22 tháng 5 năm 2020, tỏ vẻ nghi ngờ về lý do chậm trễ dự án Cát Linh – Hà Đông, mà Bộ Giao thông- Vận tải đưa ra:
“Nếu trước khi có dịch cúm Tàu Covid-19, lúc tháng 1 năm 2020 mà Dự án Cát Linh - Hà Đông đúng tiến độ thì... đổ thừa cho dịch nghe cũng xuôi tai. Nhưng trước khi xảy ra dịch Covid-19 thì tiến độ dự án, vốn, kỹ thuật, mỹ thuật công trình, bê bối trong thi công, tai nạn lao động... đã xảy ra rồi.
Trước tháng 1 năm 2020 đã bao nhiêu lần Bộ Giao thông Vận tải hứa sẽ xong... tôi nhớ không nhầm thì từ năm 2018 Bộ Giao thông Vận tải đã nói chỉ còn 1% khối lượng chưa hoàn thành. Nếu tiến độ dự án là 5 năm x 365 ngày/năm = 1.825 ngày. Vậy 1% khối lượng công việc sẽ làm trong 18,2 ngày, làm tròn là 1 tháng. Nhưng đến tháng 1 năm 2020 là hơn hơn 24 tháng, mà vẫn ì ra thì đủ biết ‘há miệng mắc quai’ với cộng sản Trung Quốc, với nhà thầu Trung Quốc?! Càng đổ thừa càng lòi đuôi ‘trơ trẽn’.”
Tại cuộc họp Thường trực Chính phủ về các dự án giao thông vận tải hôm 12/9/2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã yêu cầu Bộ Giao thông Vận tải phải chịu trách nhiệm báo cáo Thủ tướng trước ngày 30/9/2019 về tiến độ chạy thử và đưa vào sử dụng dự án đường sắt Cát Linh Hà Đông.
Đến ngày 17/9, Bộ Giao thông Vận tải cho biết đã yêu cầu tổng thầu cam kết mốc thời gian cụ thể đưa dự án vào vận hành khai thác thương mại.
Hôm 28/10/2019, tổng thầu EPC dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông cho biết 5 ngày sau tức ngày 2/11/2019, họ sẽ cho tuyến Cát Linh - Hà Đông chạy thử tích hợp và cam kết sẽ hoàn thành 100% hạng mục, đủ điều kiện bàn giao chủ đầu tư trước ngày 31/12/2019.
Tuy nhiên sau nhiều lần khất hẹn, đến tháng 2 năm 2020, tức trước khi dịch Covid-19 bùng phát, đường sắt Cát Linh - Hà Đông vẫn chưa thể vận hành thương mại.
Trở lại với báo cáo gửi Quốc hội hôm 21/5/2020, Bộ trưởng Bộ Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thể, không đưa ra lời hứa cụ thể về thời gian vận hành đường sắt Cát Linh - Hà Đông như trước đây. Ông chỉ báo cáo ‘đang chỉ đạo’ xây dựng kế hoạch bàn giao và đưa dự án vào khai thác ‘trong thời gian sớm nhất’ khi đủ điều kiện.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể cho báo chí trong nước biết thêm, công tác vận hành thử toàn hệ thống và đánh giá an toàn vẫn đang được thực hiện, đồng thời khắc phục một số tồn tại khác...
Trả lời Đài Á Châu Tự Do, Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, nói:
“Tôi nghĩ là do sơ hở sơ hở ngay từ đầu, từ lúc đàm phám với họ, Tôi cũng không rõ là các hợp đồng của các cơ quan nhà nước ký với phía Trung Quốc như thế nào mà để xảy ra tình trạng như tình trạnh đường sắt Cát Linh - Hà Đông, nói rất nhiều mà rút cuộc bây giờ người ta ì ra như vậy, tiền thì đội lên bao nhiêu, thời gian thì kéo dài ra mưới mấy năm mà cũng không xử lý được. Mà cứ phải vay nợ mãi Trung Quốc, thành ra giá cứ đội lên mãi, khoảng nợ thì cứ tăng lên, dự án thì không hoàn thành. Tôi nghĩ cái này trước hết là do khi đàm phán với nhau không rõ ràng và không đưa vào văn bản cho đầy đủ. Ở đây có thể do trình độ của những người đàm phán bên phía Việt Nam không hiểu biết về các vấn đề kinh tế.”
Theo Bà Phạm Chi Lan, thông thường những dự án này là Việt Nam vay vốn của Trung Quốc, mà theo hợp đồng vay vốn họ sẽ chỉ định thầu nên tổng thầu EPC do họ chỉ định, trường hợp đường sắt Cát Linh – Hà Đông họ đã chỉ định một công ty chưa bao giờ có kinh nghiệm, họ lấy Việt Nam làm nơi để thử nghiệm, xem trình độ kém thì làm được không và sẽ kéo dài trong bao lâu, hồ sơ chứng từ cũng không đầy đủ, rồi đủ các thứ trò đã xảy ra... Tổng thầu Trung Quốc đã dùng hết cách này cách khác để ép phía Việt Nam, mà càng kéo dài, càng tăng vốn thì họ càng có lợi.
Ngoài ra, bà Phạm Chi Lan còn cho rằng, những người làm ở Bộ Giao thông Vận tải đã làm rất nhiều dự án, kể cả việc vay vốn ODA với Ngân hàng Thế giới World Bank và nhiều đối tác khác, nhưng vẫn không học được kinh nghiệm để ứng dụng trong hợp đồng với Trung Quốc, là điều thật sự không thể hiểu nổi.
Đến tháng 1 năm 2020 là hơn hơn 24 tháng, mà vẫn ì ra thì đủ biết 'há miệng mắc quai' với cộng sản Trung Quốc, với nhà thầu Trung Quốc?! Càng đổ thừa càng lòi đuôi 'trơ trẽn'.<br/>-Trần Bang
Trong báo cáo do Bộ Công Thương thay mặt Chính phủ gửi các Đại biểu Quốc hội hôm 20 tháng 5 năm 2020, về kết quả xử lý yếu kém các dự án, doanh nghiệp có tranh chấp, vướng mắc hợp đồng EPC với phía Trung Quốc, chính phủ cho rằng việc khởi kiện ra tòa trọng tài quốc tế, để xử lý tranh chấp Hợp đồng EPC, sẽ không thuận lợi và khả năng thắng kiện thấp, chi phí theo đuổi vụ kiện lớn...
Vì lo ngại thua kiện, do đó báo cáo của Chính phủ cho rằng Bộ Tài chính cần phối hợp với các bên liên quan hướng dẫn việc chủ đầu tư ‘tự quyết toán’ phù hợp với tình hình thực tế của các dự án hiện nay hoặc khai phá sản.
Liên quan vấn đề này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nhận định:
“Theo tôi là khó tự quyết toán, bởi vì tàu chạy cũng là tàu từ phía Trung Quốc, thì không biết phía Việt Nam sẽ xử lý hết các việc đó như thế nào? Và để làm việc này cũng phải xem xét hợp đồng giữa Việt Nam với phía nhà thầu Trung Quốc, để làm rõ trách nhiệm của hai bên cho việc hoàn thành dự án này.”
Ban đầu, dự án tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông, dài khoảng 13km, dự kiến thực hiện từ năm 2008 và hoàn thành vào tháng 11/2013. Nhưng sau đó, dự án được lùi lại đến năm 2010 mới khởi công và dự kiến hoàn thành vào tháng 6/2014. Tuy vậy đến nay, sau khoảng hơn 10 lần chậm tiến độ thực hiện, dự án này vẫn chưa thể đi vào vận hành.
Theo báo cáo của Bộ GTVT, tổng vốn đầu tư ban đầu của dự án là 419 triệu USD, sau khi điều chỉnh phải tăng thêm 250 triệu USD. Nhưng vào năm 2011, đã đội vốn thành 552 triệu USD. Và đến năm 2019 đã thành 886 triệu USD.
Trong đó, phần vốn vay của Trung Quốc cũng lên con số 13,8 ngàn tỷ đồng (tương đương trên 669 triệu USD).
Theo Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, các dự án loại này phải có một dự án tiền khả thi rất là chính xác, và cần phải có một sự giám sát độc lập và rất là sít sao trong từng khâu, từng công đoạn, để tránh những hiện tượng chậm trễ và không đảm bảo chất lượng, bởi vì các dịch vụ giao thông công cộng đều cần phải hết sức an toàn.