Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đã sẵn sàng lên xa lộ EVFTA chưa?

0:00 / 0:00

Vào khi EVFTA sắp có hiệu lực đầu tháng 8/2020, thì giám đốc Nguyễn Thị Thu Trang từ Trung Tâm WTO và Hội Nhập, Phòng Thương Mại& Công Nghiệp Việt Nam (VCCI), cũng nhận định EVFTA là “con đường cao tốc” và hầu như không có rào cản để kết nối nền kinh tế Việt Nam với EU.

Phát biểu tại buổi hội thảo về EVFTA ở Hà Nội vừa qua, bà Nguyễn Thị Thu Trang nói rằng với EVFTA hàng hóa của Việt Nam sẽ đến đích nhanh hơn đối thủ, nhưng không phải loại xe nào, ở đây ám chỉ các doanh nghiệp, cũng có thể tham gia lưu thông trên tuyến cao tốc đó.

Vẫn theo lời viên chức Phòng Thương Mại & Công Nghiệp Việt Nam, muốn đi trên cao tốc thì doanh nghiệp phải thay đổi để đáp ứng những điều kiện nhất định, đồng thời các cơ quan Nhà Nước cũng phải có giải pháp tốt để vận hành.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, từng một thời là phó chủ tịch Phòng Thương Mại & Công Nghiệp, đồng ý với cách ví von của giám đốc đương nhiệm VCCI:

"Tôi nghĩ cách ví đó cũng đúng thôi. Lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam đi chủ yếu trên những con đường mòn, những con đường quê gồ ghề, khúc khuỷu, không có tên mà luật đi đường cũng không rõ ràng, cho nên dễ phạm luật, dễ gây tai nạn có khi cho cả chính mình".

"Hai nữa, những con đường kiểu đó thì tốc độ không thể nhanh được, cứ chậm rãi từng bước một thì mất rất nhiều thời gian trong khi thế giới, và ngay khu vực này thôi, đang thay đổi rất lẹ. Con đường đó là con đường phải học, phải hiểu biết, tuân thủ tất cả luật giao thông thì mới đi được. Phải biết tự mình tuân thủ, biết bảo vệ người cùng đi đường nữa để không xảy ra tai nạn. Nó vất vả nhưng nếu đi được thì tốc độ phát triển, chất lượng phát triển sẽ tốt hơn nhiều, dần dần các doanh nghiệp Việt Nam mới vượt lên được. Cách nói con đường cao tốc là ở chỗ đó".

<i>Lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam đi chủ yếu trên những con đường mòn, những con đường quê gồ ghề, khúc khuỷu, không có tên mà luật đi đường cũng không rõ ràng, cho nên dễ phạm luật, dễ gây tai nạn có khi cho cả chính mình - Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan</i>

Theo nhà nghiên cứu độc lập, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, EVFTA mà Reuters đánh giá là cơ hội cho Việt Nam trong những ngày tháng tới, đúng là con đường cao tốc vì những điều kiện tiên khởi bắt buộc, đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm túc trước khi đến đích thuận lợi mà EVFTA mang lại:

“Các điều kiện của EVFTA rất rõ ràng, điều kiện về lao động, về thành lập công đoàn, về công khai minh bạch, về vệ sinh an toàn thực phẩm…là những đòi hỏi rất cao, rất nghiêm túc mới có thể đáp ứng yêu cầu”.

"Đường cao tốc, mà bà Thu Trang nói, là sẽ giảm thuế và hàng hóa của Việt Nam ngay lập tức sẽ được giảm thuế xuống 5% , và ít năm nữa hầu như toàn bộ hàng hóa của Việt Nam thuế suất sẽ bằng không. Đúng là sẽ rất thuận lợi, cho nên đây là cơ hội lớn nhưng cơ hội đó đi cùng thách thức chứ không dễ dàng".

Doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm một tỷ lệ lớn trong nền kinh tế Việt Nam. Theo Phòng Thương Mại & Công Nghiệp, đa phần doanh nghiệp vừa và nhỏ được tổ chức theo dạng gia đình tự quản lý và điều hành.

Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp thường có kinh nghiệm xử lý những tình huống gọi là đối phó miễn sao có lợi nhuận, nghĩa là sẵn sàng "vượt rào" để kiếm tiền nhanh hơn.

Dưới mắt Phòng Thương Mại&Công Nghiệp, đó là cách kinh doanh theo kiểu “mì ăn liền”, chẳng khác nào lái xe trên đường làng, tùy tiện lấn tuyến, ép trái, ép phải, luồn lách mà không sợ bị phạt hay bị chế tài.

Có thể cách thức vừa nói ít nhiều đã giúp một số doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận trước mắt, trong khi một số doanh nghiệp khác, có kế hoạch lâu dài, đầu tư mở rộng, nhà xưởng, dịch vụ thương mại tốt nhằm tạo lập thương hiệu thì đã phải ngừng hoạt động.

EVFTA cũng dẫn tới suy nghĩ hoặc quan ngại rằng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam có thể lâm cảnh cá lớn nuốt cá bé. Nhà nghiên cứu độc lập Lê Đăng Doanh giải thích đây không phải vấn đề bị nuốt chửng mà là vấn đề chuyển đổi:

"Có e ngại đó nhưng có thể giải tỏa được bằng cách chỉ cho họ thấy họ phải liên kết với nhau, họ phải lớn mạnh lên và họ phải học tập, tiếp thu tất cả những điều kiện xuất khẩu sang Liên Minh Châu Âu".

“Còn đối với thị trường trong nước, hiện nay Việt Nam vẫn còn những chợ truyền thống, những mảng thị trường nhỏ lẻ. Tôi nghĩ đấy là khoảng thời gian nhất định để các doanh nghiệp vẫn có thể duy trì được, nhưng mà lâu dài những thị trường truyền thống đó sẽ bị các siêu thị hiện đại, rồi thì thương mại điển tử tức là giao hàng tận nhà, dần dần thay thế. Đấy là điều tôi đang nói, là cơ hội gắn liền với thách thức, để các doanh nghiệp Việt Nam phải nhanh chóng chuyển sang kinh tế số hóa, chuyển sang thương mại điện tử. Tất cả những việc đó sẽ diễn ra trong thời gian tới”.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan giải thích để trấn an quan ngại ‘cá lớn nuốt cá bé’ trong doanh giới:

"Khi trao đổi với các doanh nghiệp tôi vẫn nói nhỏ và vừa vẫn có thể có sức mạnh của mình. Ngay cả ở Liên Minh Châu Âu thì 70-75% doanh nghiệp là thuộc loại nhỏ mà. Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các nước, và ngay cả Việt Nam cũng vậy, qui mô nhỏ thôi nhưng làm ăn tốt vẫn có thể đi ra thị trường quốc tế".

“Còn chuyện cá lớn nuốt cá bé, nói chung các doanh nghiệp lớn cũng cần có đối tác là những doanh nghiệp qui mô nhỏ thôi. Có những doanh nghiệp lớn có đến vài ba ngàn doanh nghiệp nhỏ và vừa làm vệ tinh cho họ, không phải tất cả đều biến thành thành viên của các tập đoàn hay doanh nghiệp lớn đâu”.

Về quan ngại thứ hai, là không được hưởng lợi ngay từ EVFTA, thí dụ doanh nghiệp may mặc chẳng hạn, doanh nhân Diệp Thành Kiệt, chuyên gia ngành may mặc và da giày trong nước, khẳng định vấn đề không hẳn như vậy:

"Chuyện nói về ngành dệt may vì đây là ngành xuất khẩu lớn. Nhưng tôi nghĩ không chỉ dệt may mà nói chung tất cả các ngành đều có thể rơi vào tình trạng đó".

“Đối với dệt may mà muốn hưởng thuế suất bằng không, tức là hưởng thuế suất ưu đãi, thì một trong những điều kiện là vải phải sản xuất tại Việt Nam. Thực ra vấn đề vải thì Việt Nam hiện nay có thể đảm đương khoảng 40% dung lượng để xuất khẩu trên cả nước. Tuy nhiên Việt Nam vẫn phải nhập vải từ Trung Quốc và một số nước khác. Riêng đối với Hàn Quốc thì Liên Minh Châu Âu cho phép chúng ta được lấy vải Hàn Quốc cộng vào và xem đó như vải nội địa. Đó là lợi thế rất lớn, tuy nhiên không phải vải nào của Việt Nam cũng được nhập từ Hàn Quốc hết.”

"Điều này cũng nói rộng ra cho các ngành khác, là nếu anh không bảo đảm được cái tỷ lệ nội địa của EVFTA thì anh sẽ không được hưởng thuế ưu đãi. Không được hưởng thì cái thiệt thòi phải chịu là mức thuế cao. Đó là khuyến cáo không chỉ đối với ngành dệt may mà với tất cả các ngành"

Về ngành da giày, cũng là lãnh vực chuyên môn của ông, doanh nhân Diệp Thành Kiệt giải thích tiếp:

"Riêng về ngành da giày thì trong thời gian vừa qua Liên Minh Châu Âu cho mình hưởng qui chế MSP( Most System of Preference - hệ thống ưu đãi thuế quan) tương đối thấp so với MFN (Most Favoured Nation - tối huệ quốc), nôm na là mức thuế cao nhất"

"Theo báo cáo của Bộ Công Thương thì khoảng 98% các doanh nghiệp xuất khẩu sang EU lúc bấy giờ, tức là từ nay trở về trước, đều đạt yêu cầu. Suy ra thì có thể mạnh dạn nói rằng đối với ngành giày chúng ta đạt điều kiện để hưởng ưu đãi của EVFTA ngay".

Hình minh hoạ. Hình chụp hôm 20/10/2015: công nhân tại nhà máy May 10 ở Hà Nội
Hình minh hoạ. Hình chụp hôm 20/10/2015: công nhân tại nhà máy May 10 ở Hà Nội (AFP)

Từ điểm này, ông Diệp Thành Kiệt nói ông hoàn toàn đồng ý với Phòng Thương Mại&Công Nghiệp cũng như các chuyên gia kinh tế, rằng Liên Minh Châu Âu (EU) với 27 quốc gia luôn là một thị trường khó tính, yêu cầu cao về tiêu chuẩn giá trị và chất lượng sản phẩm, xuất xứ hàng hóa rõ ràng, minh bạch thông tin liên quan. Ông nêu thí dụ:

“Với EVFTA thì anh phải bảo đảm rằng trong đôi giày của anh có ít nhất 40% giá trị tạo ra là được làm tại Việt Nam, bao gồm tiền nguyên liệu, tiền chi phí nhân công tại Việt Nam. Cộng tất cả những cái đó lại, anh bán đôi giày 10 Đồng và chứng minh rằng trong đó có 4 Đồng hoặc trên 4 Đồng tôi tạo ra tại Việt Nam thì anh mới được hưởng thuế suất”.

“Ngành da giày thì có 4 cột mốc. Cột mốc thứ nhất là khoảng trên dưới 40 dòng sản phẩm được hưởng thuế bằng không ngay ngày 1/8. Rồi 3 năm sau, tức là 2023, thêm một số nữa được về bằng không, 5 năm sau có thêm một số nữa bằng không, 7 năm sau thì gần như tất cả về bằng không. Đó gọi là lộ trình giảm thuế”.

Theo tầm nhìn của Phòng Thương Mại & Công Nghiệp, kinh tế Việt Nam những năm qua có tiến bộ đáng kể với tỷ lệ tăng trưởng cao. Tuy nhiên, nếu so sánh với các nước đã phát triển thì Việt Nam còn kém rất xa.

Chính vì thế gia nhập EVFTA sẽ cho doanh nghiệp trong nước cơ hội thăng tiến, nâng khả năng cạnh tranh về nhiều mặt như giá cả, chất lượng sản phẩm hàng hóa khi nhập khẩu vào thị trường rộng lớn của EU, nhất là một khi được EU xóa bỏ tới gần 100% thuế quan theo nội dung cam kết trong hiệp định thương mại này.

Đồng thời, những qui định của EVFTA còn tạo cơ hội sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu ổn định, uy tín, chất lượng tốt với mức giá hợp lý, chưa kể được tiếp cận với nguồn lực khoa học, công nghệ, kỹ thuật cao từ nhiều nước đã phát triển nhằm nâng cao năng lực sản suất và cải thiện chất lượng sản phẩm nội địa hóa.

Giám đốc Nguyễn Thị Thu Trang của Trung Tâm WTO và Hội Nhập, Phòng Thương Mại&Công Nghiệp Việt Nam còn cho rằng EVFTA không có rào cản để kết nối kinh tế Việt Nam với EU.

Không quá lạc quan nhưng chưa đúng mức là câu trả lời của cựu phó chủ tịch Phòng Thương Mại & Công Nghiệp Phạm Chi Lan:

"Theo hiệp định EVFTA thì đúng là các rào cản đối với Việt Nam, để làm ăn với các doanh nghiệp EU, trước hết là hàng rào thuế được gỡ bỏ dần và tiến tới gỡ bỏ hoàn toàn. Ngoài giảm thuế thì các hàng rào phi thuế cũng được gỡ bỏ rất nhiều. Đó là cái tạo thuận lợi cho Việt Nam và coi như không có rào cản bởi vì nó ngang bằng với hàng của Liên Minh Châu Âu hoặc là hàng của các nước khác khi vào".

Tất cả đến từ học hỏi, nắm bắt và thực hiện, là góp ý của kinh tế gia Phạm Chi Lan. Không thể nói là không khó khăn vì còn nhiều yêu cầu tối cần khác nữa.

Vẫn theo lời kinh tế gia kiêm nghiên cứu gia độc lập Phạm Chi Lan, EVFTA còn đòi hỏi trách nhiệm xã hội, trách nhiệm bảo vệ môi trường, chưa kể trách vụ chống tham nhũng cùng với những điều kiện về tự do thành lập công đoàn hoặc tổ chức đại diện công nhân vân vân…

Những yêu cầu đó cũng rất khắc nghiệt, bà nhấn mạnh, đối với doanh nghiệp Việt Nam thì tuân thủ là chuyện không dễ nếu thiếu sự cố gắng và sự hỗ trợ của chính phủ.