Một số vấn đề về đường cơ sở của Việt Nam chiếu theo Luật biển Quốc tế

Biển Đông là một khu vực tranh chấp giữa nhiều bên. Trong cuộc cạnh tranh Mỹ Trung hiện nay, người ta thường nghĩ Hoa Kỳ chỉ tập trung phê phán những đòi hỏi chủ quyền quá mức và vi phạm Công ước Quốc tế về Luật biển 1982 (UNCLOS) của Trung Quốc.

Tuy nhiên, không phải là Việt Nam không có vấn đề với UNCLOS và không bị Hoa Kỳ phản đối, dù mức độ thấp hơn nhiều. Để giành được sự ủng hộ của Hoa Kỳ và các nước Đông Nam Á, Việt Nam có thể sẽ phải thay đổi cách tiếp cận của mình với vấn đề Biển Đông.

Vẽ đường cơ sở thẳng vi phạm UNCLOS

Mới đây, hồi giữa tháng 7 năm 2022, Hạm đội 7 của Hoa Kỳ thực hiện quyền "tự do hàng hải" (Freedom of Navigation Operation) trên Biển Đông theo UNCLOS. Năm ngoái Hạm đội 7 cũng thực hiện việc này. Và đặc biệt, năm 2020 Chiến hạm USS John S. McCain của Hạm đội 7 đã chạy sát Côn Đảo để thực hiện quyền tự do hàng hải, nhằm "thách thức các yêu sách hàng hải quá mức" của Việt Nam. Cụ thể là họ phản đối Việt Nam sử dụng một số thực thể trong nhóm Côn Đảo để vẽ đường cơ sở thẳng.

Điều 7 khoản 3 của UNCLOS quy định 6 vấn đề các quốc gia ven biển cần tuân thủ khi vạch đường cơ sở thẳng. Trong đó vấn đề quan trọng đầu tiên là đường cơ sở không được đi chệch quá xa hướng đi chung của bờ biển. Vấn đề quan trọng thứ hai là các vùng biển ở bên trong các đường cơ sở này phải gắn với đất liền đến mức có thể thuộc về nội thuỷ (Internal waters) của nước đó.

Đối chiếu các quy định trên với đường cơ sở thẳng của Việt Nam theo tuyên bố 1982 và Hồ sơ Ranh giới ngoài Thềm lục địa, người ta thấy có một số đoạn vi phạm UNCLOS. Những đoạn này quá xa bờ và nối các đảo cách nhau một khoảng cách quá lớn.

Sau khi Việt Nam ra tuyên bố đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải, một loạt nước đã phản đối. Phía Âu Mỹ có Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Đức. Phía đông bắc Á có Nhật Bản, Trung Quốc. Phía Đông Nam Á có Thái Lan, Malaysia, Singapore. Ngoài ra còn có Úc.

Những phản đối này tập trung vào các điểm ở khu vực biển phía nam, trong đó quan trọng nhất là điểm A1 (Hòn Nhạn, đảo Thổ Chu ở Kiên Giang) và A3, A4, A5 (một số đá nổi, thuộc Côn Đảo, tỉnh Vũng Tàu).

Bộ Ngoại giao Mỹ đã phân tích khá kỹ về đòi hỏi phi lý của Việt Nam đối với đường cơ sở thẳng. Theo phân tích này, tại vùng biển phía nam, ở một số vị trí, khoảng cách từ đường cơ sở do Việt Nam vẽ tới bờ biển Việt Nam đã vượt quá 80 hải lý.

ban do duong co so.gif
Bản đồ đường cơ sở của Việt Nam do Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà nước vẽ năm 1982. Việt Nam sử dụng các đảo xa bờ như Thổ Chu, Côn Đảo, Phú Quý để xác định đường cơ sở.

Mặc dù UNCLOS không quy định rõ ràng, nhưng theo tập quán quốc tế, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ ra trong báo cáo "Những giới hạn trên các vùng biển", trang 5, rằng đường cơ sở thẳng không nối giữa các đảo gần bờ cách bờ và cách nhau quá 24 hải lý. Như vậy, rõ ràng đường cơ sở thẳng của Việt Nam chưa phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.

Có cần vẽ lại đường cơ sở?

Một chuyên gia cấp cao trong nước không muốn nêu tên trao đổi với chúng tôi rằng hiện nay vấn đề đường cơ sở không phải là vấn đề nóng nữa. Ngoài ra, nếu thay đổi đường cơ sở thì phải thay đổi thêm nhiều cái khác. Chẳng hạn, Việt Nam đã dựa trên đường cơ sở này để trình Hồ sơ Ranh giới Thềm lục địa mở rộng. Mỹ phản đối đường cơ sở của Việt Nam nhưng quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ hiện rất tốt. Vì vậy, việc thay đổi đường cơ sở là không cần thiết.

RFA phỏng vấn TS. Dương Danh Huy, một trong những thành viên sáng lập của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông, về vấn đề này.

Sửa lại đường cơ sở: Việt Nam cần làm sớm hơn

RFA: Việt Nam có nên xem xét thay đổi đường cơ sở thẳng của mình hay không?

Nhà nghiên cứu Dương Danh Huy: Việt Nam tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng từ Vịnh Thái Lan đến cửa Vịnh Bắc Bộ năm 1982. Khi đó hoàn cảnh địa chính trị trên thế giới và của Việt Nam rất khác hiện nay. Khi đó Việt Nam không hiểu, cũng như không coi trọng, luật quốc tế và quan hệ ngoại giao với các nước không Cộng Sản bằng hiện nay. Hệ quả là hệ thống đường cơ sở đó vừa không phù hợp với luật quốc tế, vừa không phục vụ cho quyền lợi của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai.

Tôi cho rằng nếu Việt Nam hiểu những gì có thể đem lại quyền lợi cho mình, những gì không thể, hiểu rằng không nhất thiết là đòi càng nhiều thì càng có lợi, nếu Việt Nam muốn tỏ rằng mình là một quốc gia tôn trọng luật quốc tế nói chung, và đặc biệt là tôn trọng UNCLOS, một Công ước mà Việt Nam thường đề cao, thì Việt Nam nên chỉnh sửa lại hệ thống đường cơ sở của mình.

Đáng lẽ Việt Nam phải làm điều đó khi ban hành Luật Biển 2012, thậm chí sớm hơn nữa, nhưng đã không làm.

Duy trì đường cơ sở hiện nay: lợi bất cập hại

RFA: Xét về mặt lợi ích quốc gia, việc bảo lưu đường cơ sở sai với UNCLOS có thực sự đem lại lợi ích cho VN không? Nếu có, đó là những lợi ích gì? Nếu không thì vì sao việc bao lưu đó không đem lại lợi ích?

Nhà nghiên cứu Dương Danh Huy: Đường cơ sở thẳng đem lại cho quốc gia ven biển một số lợi ích nếu nó được các quốc gia khác chấp nhận. Nhưng nếu nó không hợp pháp thì nó sẽ khó được chấp nhận. Nếu nó bất hợp pháp nhưng quốc gia ven biển đó có đủ quyền lực cứng hay quyền lực mềm để làm cho các quốc gia khác chấp nhận hay cam nhận thì quốc gia đó cũng có thể đạt được lợi ích, dù là lợi ích bất hợp pháp. Nhưng Việt Nam không có đủ những quyền lực đó.

Thứ nhất, trên nguyên tắc, đường cơ sở thẳng tạo ra một vùng nội thủy bên trong nó, nơi quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối, các quốc gia khác phải xin phép trước khi vào. Trên thực tế, khi Trung Quốc kéo giàn khoan đi qua vùng nội thủy được đường cơ sở 1982 tạo ra, nhằm khiêu khích Việt Nam phản ứng, Việt Nam cũng chỉ tuyên bố là mình sẽ quan sát, nhưng không làm gì để thực thi cái mình gọi là chủ quyền bên trong nội thủy đó. Khi Mỹ hay bất cứ nước nào đi vào vùng nội thủy đó, Việt Nam cũng không thể làm gì.

Thứ nhì, trên nguyên tắc, đường cơ sở thẳng đẩy lãnh hải 12 hải lý bên ngoài nó ra xa bờ hơn, tức là đẩy chủ quyền của quốc gia ven biển, cũng như quyền đi qua không gây hại của các nước khác, ra xa bờ hơn. Tên thực tế, khi các nước khác không tôn trọng cái Việt Nam gọi là chủ quyền trong lãnh hải 12 hải lý bên ngoài đường cơ sở 1982, Việt Nam cũng không thể làm gì.

Trong gần 40 năm qua, các nước khác không chấp nhận rằng vùng biển 12 hải lý bên ngoài đường cơ sở 1982 là lãnh hải của Việt Nam, hay toàn bộ vùng biển bên trong nó là nội thủy của Việt Nam. Việt Nam cũng không thực thi chủ quyền đối với nội thủy và lãnh hải đó. Do đó, đường cơ sở 1982 không đem lại lợi ích gì cho Việt Nam về mặt nội thủy, lãnh hải hay vùng tiếp giáp lãnh hải.

Thứ ba, trên nguyên tắc, đường cơ sở thẳng đẩy vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý bên ngoài nó ra xa bờ hơn, và điều đó có lợi cho quốc gia ven biển.

Thế nhưng, các vùng biển giữa Việt Nam và Campuchia, Việt Nam và Thái Lan, Việt Nam và bán đảo Malaysia, Côn Đảo và Indonesia, Việt Nam và đảo Hải Nam trong khu vực cửa vịnh Bắc Bộ, đều hẹp hơn 400 hải lý. Trong những vùng biển này, sẽ không nước nào chấp nhận để cho vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam được vươn ra đến 200 hải lý hay xa hơn, việc vận dụng đường cơ sở 1982 nhằm đẩy ranh giới vùng đặc quyền kinh tế ra xa bờ hơn 200 hải lý là bất khả thi. Trên thực tế, khi Việt Nam và Thái Lan vạch ranh giới vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Thái Lan, hai bên đã không dùng đến đường cơ sở thẳng của nhau. Cũng xin nói thêm rằng đường cơ sở thẳng của Thái Lan cũng là bất hợp pháp.

Khi Việt Nam và Malaysia ký thỏa thuận về khảo sát và khai thác trong một khu vực giữa mũi Cà Mau và bán đảo Malaysia, đường cơ sở 1982 không đem lại lợi ích gì. Khi Việt Nam và Indonesia vạch ranh giới thềm lục địa tại vùng Nam Côn Sơn thì hai bên không tính đến đường cơ sở thẳng của Việt Nam. Hiện nay hai bên đang đàm phán ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và Việt Nam khó có thể vận dụng đường cơ sở 1982 để đẩy ranh giới về phía Indonesia. Như vậy, đường cơ sở 1982 không đem lại lợi ích gì cho Việt Nam trong những vùng biển này.

Vùng biển giữa đất liền Việt Nam, đảo Phú Quý và Philippine, Sabah và Sarawak của Malaysia, rộng hơn 400 hải lý. Trong vùng biển này, đường cơ sở thẳng có đẩy vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý ra xa bờ hơn, và điều đó có lợi cho Việt Nam, nếu các nước khác chấp nhận.

Tuy nhiên, nếu không có đường cơ sở 1982 thì Việt Nam vẫn có thể dùng đảo Côn Sơn và Phú Quý, thậm chí có thể dùng một số thực thể phụ cận của hai đảo này, để làm các điểm cơ sở (base points) để vạch ranh giới vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Bằng cách đó, Việt Nam có thể có một vùng đặc quyền kinh tế hoàn toàn hợp pháp với diện tích gần bằng vùng đặc quyền kinh tế dựa trên đường cơ sở 1982.

Tuy Việt Nam phải từ bỏ một phần nhỏ, vốn là phần bất hợp pháp, của vùng đặc quyền kinh tế, những vùng đó vẫn thuộc về thềm lục địa mở rộng (extended continental shelf) của Việt Nam, và quyền khai thác dầu khí vẫn thuộc về Việt Nam. Do đó, trên thực tế, nếu Việt Nam chỉnh sửa lại đường cơ sở cho hợp pháp thì sẽ vẫn giữ được đại đa phần quyền lợi của mình.

RFA xin trân trọng cảm ơn Nhà nghiên cứu Dương Danh Huy đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.