Vừa qua, tại cuộc họp của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nhằm chuẩn bị cho kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng những hình ảnh thể hiện tinh thần yêu nước của người Việt như ATM gạo rất đáng tự hào, trên thế giới chưa bao giờ có.
ATM Gạo
Liệu ATM có đáng để Việt Nam tự hào với thế giới?
Chị Hằng Huỳnh, một người dân ở Đà Nẵng khi trao đổi với Đài Á Châu Tự Do qua tin nhắn hôm 12 tháng 5 năm 2020, nhận định:
“Bỏ qua chuyện ATM gạo xuất phát từ Malaysia năm 2016, thì có gì đáng tự hào? Những nước nghèo đói mới cần đến viện trợ gạo, dân nghèo rất nghèo mới đi chờ trợ cấp gạo chứ, đáng lẽ ra đó một một sỉ nhục, thì bà Ngân lại tự hào vì điều này. Tôi không hiểu sao một Chủ tịch Quốc hội lại không hiểu điều sơ đẳng đó.”
Các vị lãnh đạo nhà nước thường người ta có xu hướng, không nhìn cái đó như là vấn đề nội tại của xã hội, của dân tộc mà như là một thành quả lãnh đạo của các vị... cái đó thì quá...<br/>-PGS. TS. Hoàng Dũng
ATM gạo đầu tiên ở Việt Nam xuất hiện tại địa chỉ 204B đường Vườn Lài, quận Tân Phú, TP. Hồ Chí Minh. Máy này do anh Hoàng Tuấn Anh - CEO của Công ty PHGLock, tận dụng máy móc có sẵn của công ty chế tạo, máy hoạt động như cây ATM, chỉ cần nhấn nút, gạo sẽ tự động tuôn ra, mỗi lần được 1,5kg gạo, dành cho 2-3 người ăn trong khoảng 1 tuần.
Mục đích của Anh Tuấn khi đó nhằm giúp đỡ những người nghèo, buôn bán dạo, trong thời gian giãn cách xã hội để chống dịch covid-19 không thể buôn bán, rơi vào thế túng quẫn, vẫn có gạo để ăn.
Theo Bộ Lao động, Thương bình và Xã hội, trong bốn tháng đầu năm 2020, đã có khoảng 670 ngàn lao động bị mất việc làm do ảnh hưởng của dịch COVID-19.
Ý tưởng của Anh Tuấn sau đó được nhiều mạnh thường quân ủng hộ đã phát triển thêm nhiều máy ATM gạo ở Sài Gòn. Sau đó, ATM gạo lần lượt xuất hiện ở nhiều tỉnh thành trên cả nước như Hà Nội, Hà Nam, Thừa Thiên Huế, Bình Định, Khánh Hoà, Đà Nẵng, Đắk Lắk… và một số tỉnh ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Hoàng Dũng nhận định với Đài Á Châu Tự Do hôm 12 tháng 5 năm 2020:
“Một mặt nào đó nói tự hào là đúng, vì tôi nghĩ người Việt trong lúc khó khăn họ nghĩ ra cái cách làm sao giúp nhau được, cái đó là truyền thống người Việt thương yêu nhau, đề cao là đúng. Còn về phương diện khác như kỹ thuật thì ai cũng biết nó đơn giản, không khó khăn gì, vấn đề là do tình yêu thương, người ta nghĩ ra chuyện kỹ thuật. Có điều là các vị lãnh đạo nhà nước thường người ta có xu hướng, không nhìn cái đó như là vấn đề nội tại của xã hội, của dân tộc mà như là một thành quả lãnh đạo của các vị... cái đó thì quá... Thường thường họ nói có cái cách ám chỉ như là họ lãnh đạo sáng suốt nên có chuyện đó... Mà đó là người dân giúp người dân thôi, chứ không liên quan gì nhà nước ở đây cả... Người dân dần dần nghe mấy chuyện tương tự như vậy họ chỉ cười...”
Tỷ lệ hộ nghèo
Có ý kiến cho rằng việc xuất hiện nhiều ATM gạo cho thấy số người thiếu thốn còn nhiều. Đợt dịch COVID-19 làm lộ rõ điều đó. Số người có tiết kiệm phòng khi cơ nhỡ khá đông.
Theo số liệu thống kê của Liên Hiệp Quốc năm 2019, dân số Việt Nam ước tính là hơn 97 triệu người, tỷ lệ người nghèo chiếm hơn 10% dân số tức khoảng hơn 9 triệu người, 72% trong số này là người dân tộc thiểu số, phần lớn họ sống tại vùng cao.
Nguyên nhân của những hậu quả trên được ông Đỗ Văn Chiến, Bộ trưởng – Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc Việt Nam cho báo chí biết, là vì điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ở vùng sâu vùng xa, dẫn đến việc thiếu nguồn nhân lực, đầu tư giáo dục và kinh tế kém, tình trạng thất nghiệp... Bên cạnh đó, việc phối hợp kém hiệu quả giữa chính quyền địa phương và Chính phủ cũng là điểm bất cập.
Do đó, người Việt ở nông thôn Việt Nam tìm đủ cách vay tiền để đi nước ngoài làm việc, vì không tìm được việc làm trong nước. Trong khi chính phủ cung cấp hỗ trợ công ăn việc làm thì không thể đến tay tất cả mọi người.
Lao động xứ người
Vào cuối năm 2019, câu chuyện thanh niên - thiếu nữ lao động xứ người, đã gây chấn động dư luận khi 39 nạn nhân người Việt nhập cư lậu vào Anh bỏ mạng trên một chiếc xe container đông lạnh và được cảnh sát Essex, Anh phát hiện hôm 23/10. Tỉnh có đông nạn nhân nhất là Nghệ An với 21 người, tiếp theo là Hà Tĩnh với 10 người, còn lại là các tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên – Huế, Hải Phòng và Hải Dương.
Trong khi đó Việt Nam luôn tự hào có một thành phần đóng góp không nhỏ cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đó là lao động Việt ở nước ngoài. Bộ Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội cho biết, năm 2019, có khoảng 148.000 người Việt Nam xuất cảnh đi làm việc ở nước ngoài. Sau 4 năm, hơn 550.000 lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc. Mỗi năm đem về cho đất nước hàng tỷ đô la.
Không chỉ ở Anh, nhiều người Việt Nam đã tìm cách nhập cư lậu và làm việc trái phép ở Đài Loan, phần nhiều đi từ các tỉnh miền Trung. Linh mục Nguyễn Văn Hùng, thường trợ giúp pháp lý cho công nhân Việt tại Đài Loan, khi trả lời RFA trước đây, cho biết:
“Rất nhiều người ở Nghệ An và Hà Tĩnh đi bất hợp pháp qua Đài Loan làm việc một cách phi pháp. Họ ở trên những vùng núi, chừng 8 người trong không phải là cái nhà mà là cái chòi, đời sống rất kham khổ. Nếu có khả năng làm việc thì có tiền gởi về. Nếu trời mưa lạnh không đi làm thì không có tiền và họ phải đi vô rừng. Tôi đã đi thăm các trại tù, tôi gặp rất nhiều lao động Việt đi chặt cây bất hợp pháp trên rừng, có người bị tù tới 11, 12 năm vì đi làm những công việc vừa nguy hiểm vừa vi phạm pháp luật của Đài Loan như vậy.
Những người đi đánh cá xa bờ mà khi có cơ hội vào bờ thì họ bơi vào và trốn lên những khu trồng rau hoặc trồng trà trên núi. Họ ở đó họ làm và không dám đi đâu cả vì sợ bị bắt.”
Còn những ngư dân đi đánh cá xa bờ khác còn phải chịu nhiều hiểm nguy khi bị tàu Trung Quốc cướp bóc, đâm chìm... Trong khi chính quyền Việt Nam luôn tự hào tuyên bố việc gìn giữ chủ quyền biển đảo, cũng như bảo vệ ngư dân...
Chủ quyền biển đảo
Mỗi lần Trung Quốc gây hấn, như thường lệ các phát ngôn nhân của Bộ Ngoại giao Việt Nam lại cho phát đi phát lại cái mà nhiều người trong nước ví như ‘đoạn băng rè’ phản đối hành động của Trung Quốc và tuyên bố vùng biển đó thuộc chủ quyền Việt Nam...
Trong bốn tháng đầu năm 2020, Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh những hành động khiêu khích nhằm áp đặt chủ quyền của họ ở Biển Đông, khiến tình hình tại vùng biển đang tranh chấp này thêm căng thẳng.
Tôi thấy biện pháp tiếp cận của Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á hiện nay, là phù hợp với tình hình trong khu vực.<br/>-Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc
Truyền thông Trung Quốc vào ngày 5/3/2020 đồng loạt đăng Báo cáo của Viện Sáng kiến Nghiên cứu Tình hình Chiến lược Biển Đông (SCSPI) nói rằng có tổng cộng 311 tàu cá Việt Nam đã xâm nhập vào khu vực nội địa gần đảo Hải Nam, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc vào tháng 2, với mục đích đánh bắt cá và làm gián điệp bất hợp pháp.
Và tiếp đến là Trung Quốc cho tàu hải cảnh đâm chìm tàu cá Việt Nam, nhưng lại cho rằng tàu cá Việt Nam tự đụng vào tàu Trung Quốc.
Vào ngày 18/04/2020, Trung Quốc thông báo thành lập hai quận thuộc “thành phố Tam Sa”, đó là “quận Tây Sa” (tức quần đảo Hoàng Sa) và “quận Nam Sa” (tức quần đảo Trường Sa), hai quần đảo mà Hà Nội khẳng định là thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Trao đổi với Đài Á Châu Tự Do hôm 12 tháng 5 năm 2020 liên quan vấn đề này, Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc, nhận định:
“Vấn đề tranh chấp biển Đông là một vấn đề phức tạp, nó không chỉ mới diễn ra trong những năm gần đây. Hay nói một cách khác, nó không chỉ đẩy mạnh từ khi Trung Quốc thành lập cái gọi là Tam Sa từ năm 2007, mà vấn đề tranh chấp này bắt đầu từ năm 1909, khi chính quyền Quảng Đông cho một đội tàu ra thám sát Hoàng Sa. Chúng ta thấy cuộc tranh chấp này hơn một trăm năm, nó không giải quyết được vấn đề, càng ngày cái tranh chấp đó đi đến một giai đoạn thật gay gắt, nó đặt Đông Nam Á trên miệng hố chiến tranh.”
Vậy thì chiến tranh có xảy ra hay không? Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc đặt vấn đề, với tiềm lực kinh tế và quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc thì có nên phát động một cuộc chiến tranh hay không? Thứ hai, chiến tranh trên Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc thì dù bên nào thắng thì tất cả đều cùng thiệt hại rất nặng nề. Và cái thiệt hại lớn nhất là hòa bình, ổn định trong khu vực Đông Nam Á bị đe dọa. Nhà nghiên cứu Biển Đông Đinh Kim Phúc cho biết, ông thấy không có lợi cho khu vực này. Ông nói tiếp:
“Vậy thì hòa hoãn để giải quyết bằng phương pháp hòa bình, bằng mọi cách, bằng công pháp quốc tế... bằng tòa án, bằng tòa trọng tài, bằng đối thoại song phương, đa phương... thì tôi thấy biện pháp tiếp cận của Việt Nam cũng như các nước Đông Nam Á hiện nay, là phù hợp với tình hình trong khu vực.”
Vào đầu tháng 5 năm 2020, Cơ quan quản lý nghề cá Trung Quốc ra thông báo cấm đánh bắt cá trên Biển Đông có hiệu lực từ ngày 1 tháng 5 năm 2020 đến ngày 16 tháng 8 năm 2020. Phạm vi cấm đánh bắt trải dài từ vùng biển phía bắc Biển Đông, bao gồm cả một phần vịnh Bắc Bộ và quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Từ năm 1999 trở lại đây, Trung Quốc hàng năm đều áp dụng lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương ở Biển Đông, bất chấp những phản đối mạnh mẽ từ các nước trong khu vực. Lý do mà Trung Quốc đưa ra đối với lệnh cấm này là để bảo vệ sự phát triển của nguồn cá.
Nhiều người cho rằng lãnh đạo cần thấy rõ vấn nạn chủ quyền đất nước bị phía Trung Quốc xâm phạm, nguy cơ tụt hậu so với những nước trong khu vực chứ chưa nói đến những quốc gia khác trên thế giới để có phương cách vượt lên. Khi có vị thế vững chắc trên trường quốc tế mới đáng tư hào.