Cải tổ chính trị ở Việt Nam thế nào trong bối cảnh chiến tranh lạnh mới? (Phần 1)

Cải tổ chính trị ở Việt Nam đang là đòi hỏi cấp thiết để phát triển đất nước, nhưng chính sách sẽ chỉ bền vững và hiệu quả khi đặt trong xu hướng phát triển chung của thế giới, trong đó Chiến tranh Lạnh mới là bối cảnh.

Các nhà hoạch định chính sách Việt Nam đang trong quá trình “dự báo bối cảnh quốc tế giai đoạn 2024 - 2030 và kiến nghị chính sách cho Việt Nam” vào lúc chưa bao giờ thế giới “cùng lúc phải đối mặt với nhiều khủng hoảng đến như vậy” kể từ hội nghị đầu tiên cách nay 60 năm, như nhận định của nhà ngoại giao Đức Christoph Heusgen, Chủ tịch Hội nghị an ninh Munich. Trong hội nghị lần thứ 60 diễn ra tại Đức từ ngày 16 -18/02/2024 lãnh đạo của khoảng 50 quốc gia, và 100 bộ trưởng các nước “tìm kiếm hòa bình thông qua đối thoại.” Tuy nhiên, sau ba ngày

làm việc, nó đã không mang lại triển vọng giải quyết hai cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất của thế giới trong thời điểm hiện tại, cuộc xâm lăng Ukraina của Nga và xung đột Israel – Hamas tại Gaza, và Liên Hiệp Châu Âu (EU) xác định cần có chính sách quốc phòng chung…

Xây dựng chính sách phát triển đất nước cần đặt trong bối cảnh quốc tế là cần thiết khách quan. Trong khi các tổ chức nghiên cứu chính trị (think-tanks) ở Việt Nam đều đang phục vụ yêu cầu của giới lãnh đạo, bài viết này gợi ý thêm một lựa chọn quyết sách từ cách tiếp cận về Chiến tranh Lạnh, sự khác biệt giữa hai tư tưởng đối nghịch về ý thức hệ giữa chủ nghĩa xã hội (CNXH) và chủ nghĩa tư bản (CNTB). Hai hệ tư

tưởng này đóng vai trò là động lực của toàn bộ Chiến tranh Lạnh. Thế giới đã trải qua Chiến tranh Lạnh lần thứ nhất (1947 – 1991), trong đó hai thế lực được dẫn dắt bởi hai siêu cường Liên Xô và Mỹ với thế giới quan đối nghịch, nhưng mỗi bên đều khăng khăng quan điểm của họ bằng mọi cách, không chỉ kinh tế mà cả bằng vũ khí hạt nhân đe doạ ngày tận thế. Sau khi Liên Xô sụp đổ là ‘khoảng lặng’, một thời kỳ ‘hoà hoãn’, trong đó Nga thay thế Liên Xô nhưng Trung Quốc trỗi dậy mạnh mẽ như một thế lực dẫn đầu. Và, Chiến tranh Lạnh mới, phiên bản 2.0, đã bắt đầu đang là một thực tế chi phối bối cảnh quốc tế hiện nay.

Trước hết, về Chiến tranh Lạnh 1.0. Đây là giai đoạn căng thẳng địa chính trị giữa Hoa Kỳ và Liên Xô và các đồng minh tương ứng của họ, Khối phương Tây và Khối phương Đông, bắt đầu vào năm 1947 sau khi kết thúc Thế chiến II và kéo dài đến năm 1991. Thuật ngữ chiến tranh lạnh được sử dụng bởi vì không có cuộc chiến quy mô lớn trực tiếp giữa hai siêu cường, nhưng mỗi bên đều ủng hộ các bên đối lập trong các cuộc xung đột lớn trong khu vực được gọi là chiến tranh ủy nhiệm. Cuộc xung đột dựa trên cuộc đấu tranh về ý thức hệ và địa chính trị để giành ảnh hưởng toàn cầu của hai siêu cường này, theo sau vai trò của họ với tư cách là Đồng minh trong Thế chiến II đã dẫn đến chiến thắng trước Đức Quốc xã và Đế quốc Nhật Bản vào năm 1945. Ngoài cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân và triển khai quân sự thông thường, cuộc đấu tranh giành quyền thống trị được thể hiện thông qua các phương tiện gián tiếp, chẳng hạn như chiến tranh tâm lý, tuyên truyền, gián điệp, cấm vận sâu rộng, ngoại giao thể thao và các cuộc chạy đua về công nghệ như Cuộc đua không gian…

Kéo dài gần nửa thế kỷ, Chiến tranh Lạnh 1.0 được cho là kết thúc với sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô vào những năm 1990.

Nguyên nhân khách quan là kinh tế khi nền kinh tế XHCN thua kém so với TBCN về năng suất để tạo ra lực lượng sản xuất đủ lớn cho sự thịnh vượng của quốc gia và thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của người dân. Điều này dẫn đến cuộc cải tổ sâu rộng kinh tế - xã hội với hai trụ cột xây dựng lại (tiếng Nga: перестройка) và công khai (tiếng Nga: главность), trong đó có vai trò của cá nhân như Mikhail Gorbachov, cố Tổng bí thư Đảng CS Liên Xô, khởi xướng và tiến hành. Ngoài ra, ông cũng không can thiệp vào sụp đổ đô-mi-nô của hệ thống XHCN, từ sự kiện “Bức tường Béc-Linh” ở Đức năm 1989. Đây là nguyên nhân chủ quan.

000_8VA9BN.jpg
Một nghệ sĩ đường phố đang vẽ trên một phần của Bức tường Berlin (1961 - 1989) hôm 15/11/2020 (minh họa). AFP

Cạnh tranh là cần thiết cho tiến hoá nói chung, trong đó có sự phát triển xã hội loài người. Và, ‘khoảng trống’ từ sự sụp đổ của Liên Xô được dần ‘lấp kín’ bởi Trung Quốc trong khi Nga thế chân và các nước ‘cựu’ XHCN ở Đông Âu chuyển đổi sang chế độ dân chủ. Ngay từ đầu những năm 1970, dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Mỹ đã khởi đầu cho sự sụp đổ hệ thống XHCN bằng việc chia rẽ Xô-Trung bởi ngoại giao bí mật đến Bắc Kinh. Sau khi Mao Trạch Đông chết năm 1976, sự thay đổi chính trị diễn ra nhanh chóng. Đặc biệt, khi Đặng Tiểu Bình, cố Tổng bí thư Đảng CS TQ phát động và thực hiện đường lối Cải cách và Mở cửa (tiếng Trung: 改革開放). Tư tưởng thực dụng làm thay đổi ý thức hệ, giúp Trung Quốc hội nhập nhanh với thế giới, lợi dụng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, chuyển đổi nền kinh tế sang thị trường để phát triển lực lượng sản xuất nhưng không từ bỏ tư tưởng chủ nghĩa cộng sản để duy trì được chế độ. Nhờ chủ nghĩa tư bản, Trung Quốc đã thoát nghèo, sau hơn một phần ba thế kỷ trở thành nền kinh tế thứ hai thế giới, và trỗi dậy hung hăng đặc biệt khi Tập Cận Bình thâu tóm và kéo dài quyền lực tuyệt đối từ năm 2012… Vị hoàng đế Trung hoa mới đang tìm kiếm phương cách để cạnh tranh vị trí thống trị thế giới với Mỹ…

Thế giới đã không “phẳng” như Thomas L. Friedman hình dung, toàn cầu hoá với tự do thương mại và đầu tư đang lung lay dữ dội, và lịch sử loài người chưa kết thúc bởi nền dân chủ tự do kiểu phương Tây như Francis Fukuyama mô tả trong cuốn “Sự kết thúc của lịch sử và con người cuối cùng” của mình… Chiến tranh Lạnh 2.0, còn được gọi là "Chiến tranh Lạnh mới", dần được bàn thảo nhiều hơn. Đây là các thuật ngữ đề cập đến những căng thẳng địa chính trị gia tăng trong thế kỷ 21 giữa Mỹ và Trung Quốc, giữa Mỹ, Châu Âu và Nga - quốc gia kế thừa của Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh 1.0.

Những động thái chiến lược, chiến thuật, ‘nhu’ và ‘cương’ kể cả chiến tranh uỷ nhiệm và đe doạ hạt nhân, gây ảnh hưởng tới các nước ‘phương Nam’ để định hình trật tự thế giới mới. Mỹ và phương Tây, giờ đây, coi Trung Quốc giờ là đối thủ cạnh tranh trực tiếp, thậm chí đặt ra mối đe dọa lớn hơn và lâu dài so với Nga đang sa lầy trong cuộc chiến tranh uỷ nhiệm Nga – Ukraine do Putin phát động xâm lược đang bước vào năm thứ ba đầy căng thẳng. Trong bối cảnh này nhưng Tổng thống Joe

Biden tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc tháng 9/2021 vẫn phát biểu, rằng Hoa Kỳ "không tìm kiếm một Chiến tranh Lạnh mới hoặc một thế giới bị chia cắt thành các khối cứng nhắc." nhưng ông Biden lưu ý Hoa Kỳ sẽ hợp tác "với bất kỳ quốc gia nào bước lên và theo đuổi giải pháp hòa bình cho những thách thức chung", bất chấp "sự bất đồng sâu rộng trong các lĩnh vực khác, bởi vì tất cả chúng ta sẽ phải chịu hậu quả của thất bại của mình."

Mặc cho những cảnh báo được đưa ra, rằng "lợi nhuận từ thương mại mở" năm 2023 có nguy cơ mất, theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), tới bảy nghìn tỷ đô la Mỹ hay những vấn đề đòi hỏi nỗ lực chung toàn cầu như chống biến đổi khí hậu, chống ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo, chiến tranh uỷ nhiệm, phương Tây chia rẽ, nền dân chủ kể cả ở Mỹ đang gặp thách thức… nhưng Chiến tranh Lạnh 2.0, “cuộc chiến

tranh lạnh mới giữa phương Tây và phương Đông", vẫn đã bắt đầu với "sự tái sinh của một kỷ nguyên xung đột mới, sự kết thúc của kiến trúc an ninh quốc tế đơn cực cuối thế kỷ 20 dưới quyền bá chủ của Hoa Kỳ, [và] sự kết thúc của toàn cầu hóa."

Tình hình và xu hướng Chiến tranh Lạnh mới là phức tạp, thay đổi nhanh khó lường trong khi chủ nghĩa thực dụng đang thống trị quan hệ quốc tế mỗi quốc gia nhìn nhận và hành động vì lợi ích riêng. Việt Nam không là ngoại lệ, hơn thế, hội tụ với nhiều yếu tố của Chiến tranh Lạnh, sẽ phản ứng chính sách thế nào để phát triển đất nước trước một thế giới đầy biến động?

* Bài viết không thể hiện quan điểm của Đài Á Châu Tự Do.