Sáp nhập tỉnh: động cơ chính trị và hệ lụy

Sau khi đất nước thống nhất vào tháng 4 năm 1975, Việt Nam có 72 đơn vị hành chính cấp tỉnh. Miền Bắc có 25 đơn vị và miền Nam có 47 đơn vị. Đến tháng 12 năm 1975, Quốc hội khóa 5 ra nghị quyết bãi bỏ cấp khu, giải thể khu tự trị, sáp nhập hàng loạt tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, tới năm 1976, cả nước chỉ còn 38 tỉnh.

Trải qua vài lần sáp nhập rồi tách tỉnh vào các năm 1978, 1979, 1989, 1991, 1997, 2004, 2008, cả nước có 63 tỉnh, thành. Giờ đây, câu chuyện sáp nhập đơn vị hành chính lại một lần nữa được khuấy lên.

Động cơ chính trị

Đề án sáp nhập tỉnh được giải thích nhằm phục vụ nhu cầu phát triển, do nhiều tỉnh hiện tại không đạt tiêu chuẩn về dân số và diện tích, trong khi những tỉnh có tiềm năng phát triển lại không đủ dư địa.

Tuy nhiên, nhu cầu kinh tế-xã hội có phải là nguyên do duy nhất đứng sau kế hoạch tái cấu trúc đơn vị hành chính, hay còn động cơ nào khác?

Trao đổi với RFA, Tiến sĩ Thủy Nguyễn, Đại học Oregon, chuyên gia về chính sách công và khoa học dữ liệu cho rằng, nguyên nhân chính yếu cho việc sáp nhập hay tách tỉnh là để củng cố hay bẻ gãy quyền lực chính trị.

“Việc sáp nhập có thể giúp củng cố quyền lực cho một nhóm nhỏ hơn, loại bỏ những người đứng đầu yếu. Ngược lại, việc chia tách có thể là sự thương lượng để chia phần quyền lợi, để làm “loãng” bớt quyền lực hiện đang thuộc về tay ai đó. Những ai có thể đứng sau các công cuộc sáp nhập hay chia tách thành công đều thể hiện được sức mạnh chính trị của mình”, bà nói.

Hệ thống chính trị Việt Nam được thiết kế để đảm bảo quyền lực được phân tán cho các nhóm khác nhau. Đây là kinh nghiệm được rút ra sao nhiều thập kỷ quyền lực được tập trung quá mức vào một cá nhân, điển hình như trường hợp của ông Lê Duẩn.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cơ quan được cho là quyền lực nhất của bộ máy chính trị, được tạo thành bởi các ủy viên đại diện cho đảng bộ các khối, ngành, cơ quan và tỉnh-thành trong cả nước. Cơ cấu này được hy vọng sẽ đảm bảo dân chủ trong Đảng.

Việc giảm bớt các tỉnh đồng nghĩa số ủy viên trung ương tới từ các địa phương sẽ giảm xuống, ảnh hưởng của lợi ích nhóm tới các quyết sách của Đảng sẽ yếu đi. Khi địa phương suy yếu, sức mạnh chính trị sẽ được tập trung nhiều hơn vào Trung ương.

Đề án sáp nhập các tỉnh, theo Tiến sĩ Thủy Nguyễn, vì thế có vai trò quan trọng đối với vị thế chính trị của ông Tô Lâm, người đang cần tập trung quyền lực để thực hiện những tham vọng cải tổ:

Điều này trùng khớp với việc ông Tô Lâm đang rà soát lại bộ máy hành chính, sa thải nhiều công chức, cắt bớt nhiều cơ quan. Nói chung là một xu hướng củng cố vị thế chính trị mạnh mẽ”.

Bà Thủy giải thích thêm, việc giảm số tỉnh đồng nghĩa với giảm số lượng người đứng đầu tỉnh, cả bên đảng và chính phủ. Như vậy, số phiếu đại biểu quốc hội hay đại biểu dự đại hội đảng toàn quốc, vốn trước kia được phân bổ theo đơn vị tỉnh, sẽ có biến động. Điều này có ảnh hưởng đến việc bầu ban chấp hành trung ương và bộ chính trị.

“Mặt khác, việc chọn ra người đứng đầu tỉnh mới cũng là sự biểu diễn của quyền lực mới. Người được chọn thường sẽ là người có khuynh hướng đồng nhất với người đứng đầu đảng hiện nay. Cả hai yếu tố này đều đóng góp vào tiến trình củng cố vị thế chính trị của ông Tô Lâm”, theo Bà Thủy.


Ông Tô Lâm đang gia tăng khả năng kiểm soát Đảng như thế nào?

Sau Trung ương giáp Tết: Tô Lâm từ “hào hai” sang “hào ba”

Ông Tô Lâm quẳng cái đe sắt cho đối thủ đang sắp chết đuối


Cần đánh giá thận trọng

Theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các tỉnh thành phải đáp ứng ba tiêu chí quan trọng gồm: quy mô dân số, diện tích tự nhiên và số đơn vị hành chính cấp huyện.

Cụ thể, tỉnh miền núi, vùng cao phải có dân số từ 900.000, diện tích 8.000 km2; tỉnh ở những nơi khác dân số 1,4 triệu, diện tích 5.000 km2. Đồng thời, tỉnh thành phải có chín đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó ít nhất một thành phố hoặc một thị xã. Đơn vị hành chính cấp huyện, xã cũng có tiêu chuẩn về dân số và diện tích.

Những địa phương không đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này sẽ nằm trong diện xem xét sáp nhập.

Nếu chỉ dựa vào những tiêu chí cứng như diện tích và dân số để làm cơ sở hình thảnh tỉnh, thì sẽ tạo ra nhiều bất cập.

Ông Đinh Kim Phúc, nguyên Giảng viên Bộ môn Lịch sử Trường Đại học Cần Thơ cho biết điều quan trọng là phải nghĩ đến tập quán, truyền thống của người dân và phải có lộ trình chuẩn bị chứ không thể nóng vội.

“Nếu chỉ trên vấn đề cơ học như vậy thì nó sẽ phá vỡ cấu trúc của Việt Nam. Vấn đề hình thành lịch sử của Việt Nam, truyền thống của Việt Nam khác hẳn các nước phương tây, và sức mạnh của Việt Nam hình thành trong hàng ngàn năm qua bắt đầu từ nền dân chủ đình trung, tức dân chủ từ cơ sở trở lên mới cố kết được cộng đồng, mới phát huy được sức mạnh cộng đồng”.

Cho đến hôm nay, số lượng tỉnh, thành còn lại sau khi sáp nhập vẫn là con số bí ẩn. Một số tài khoản mạng xã hội đồn doán, sau khi sáp nhập, 63 tỉnh thành còn lại 31 tỉnh thành. Tuy vậy, thông tin này bị công an TP.HCM cho là tin giả và khuyến cáo người dân cần thận trọng, nếu đưa tin sai sự thật sẽ bị phạt tiền.

Cho dù con số tỉnh, thành sáp nhập là bao nhiêu thì cuộc sống người dân cũng ít nhiều bị ảnh hưởng, từ thủ tục giấy tờ, bất động sản đến cơ hội việc làm và dịch vụ công. Nhiều người lo lắng mất đi bản sắc địa phương khi tỉnh bị sáp nhập.

“Việc sáp nhập các tỉnh phải tính đến phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa của mỗi tỉnh sao cho hài hòa khi hợp nhất; phải nghiên cứu địa hình, thổ nhưỡng để có điều kiện phát huy thế mạnh về kinh tế khi hợp nhất”, ông Quang, một người dân miền Trung nói với RFA:

Bà Tuyết ở Tây Ninh thì cho việc sáp nhập tỉnh, thành sẽ gây rắc rối cho dân nhiều thứ như phải sửa lại địa chỉ trên giấy tờ, sợ mất việc làm…

“Sáp nhập thì chắc chắn có nhiều thay đổi. Tôi chỉ mong nhà nước công khai, minh bạch những thay đổi cho dân biết. Nhập tỉnh vào với tỉnh nào phải vì quyền lợi của dân, của nước chứ đừng vì quyền lợi của mấy ổng là được. Mà tính toán cho kỹ chứ đừng nay sáp nhập, mai tách ra khổ dân lắm.”

Việc sáp nhập, tách tỉnh ra sao cho hợp lý và bền vững không chỉ là nguyện vọng của người dân, mà nó còn là trách nhiệm của Bộ Chính trị.

Tiến sĩ Thủy Nguyễn cho rằng, để sáp nhập và chia tách các đơn vị hành chánh một cách bền vững thì phải cân bằng được cả ba yếu tố là lợi ích về kinh tế; nhân khẩu và xã hội, và thoả thuận tương đối về quyền lực chính trị.

“Điều thứ nhất và thứ hai có thể trả lời thông qua trưng cầu dân ý. Việt Nam công bố là có tham khảo ý kiến của người dân. Nếu tham khảo được đa dạng và số lượng người đủ có ý nghĩa thống kê thì mới là thực chất. Điều thứ ba rất khó thấy. Một cách lý tưởng nhất thì người dân có thể tiệm cận được thông qua việc tranh luận mở ở quốc hội hay báo chí công khai”, bà Thủy phân tích.