Tăng tốc bồi đắp đảo ở Trường Sa, Việt Nam củng cố năng lực răn đe

Việt Nam vẫn tiếp tục bồi đắp nhanh chóng các tiền đồn của mình tại quần đảo Trường Sa trong 10 tháng qua. Hôm 21 tháng Ba, 2025, Chương trình Minh bạch Hàng hải Châu Á (AMTI) trực thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) công bố báo cáo khẳng định thông tin này.

Tăng tốc bồi đắp đảo

Trong lần cập nhật thông tin vào tháng Sáu năm 2024, AMTI cho biết Việt Nam đã bồi đắp khoảng 2,360 mẫu Anh (tương đương 955 hectar) ở Trường Sa.

Kể từ đó đến nay, trong khoảng 10 tháng, Việt Nam đã bồi đắp thêm 259 ha đất mới ở Trường Sa. Để so sánh, từ tháng Mười Một năm 2023 đến tháng Sáu năm 2024, Việt Nam bồi đắp được 280 ha. Như vậy, tốc độ bồi đắp đảo nhân tạo của Việt Nam ở Trường Sa không suy giảm trong hai năm qua.

Chiến dịch bồi đắp này giúp Việt Nam hiện có khoảng 1343 ha đất ở Trường Sa. Diện tích này tương đương khoảng 2000 sân bóng đá theo tiêu chuẩn quốc tế. Và tương đương 71% tổng diện tích Trung Quốc đã bồi đắp (1882 ha).

Cùng với việc mở rộng diện tích đảo, Việt Nam còn nâng cao năng lực quân sự cho các đảo.

Việt Nam theo đuổi sức mạnh thực tế?

Có phải Việt Nam theo đuổi “chủ nghĩa hiện thực” nhiều hơn, sau khi phán quyết của Tòa PCA năm 2016 bị Trung Quốc phớt lờ và Trung Quốc tiếp tục gia tăng áp lực mạnh mẽ lên Philippines ở Bãi Cỏ Mây? Nói cách khác, hành xử của Trung Quốc làm cho Việt Nam tin rằng sức mạnh trên thực địa quyết định thắng và thua chứ không phải là Luật pháp quốc tế?

Trao đổi với RFA, ông Harrison Pretat, Phó giám đốc AMTI, nơi công bố bản báo cáo, và nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương ở Đại học New South Wales, Úc, đều cho rằng Việt Nam từ lâu đã nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của sức mạnh quân sự ở Biển Đông.

Theo ông Nguyễn Thế Phương, Việt Nam đã tính đến việc cải tạo đảo, nâng cấp năng lực quân sự ở Trường Sa từ năm 2014, sau khi Trung Quốc đã bắt đầu bồi đắp đảo ở Trường Sa từ năm 2013 và đặc biệt là sau vụ Trung Quốc kéo giàn khoan Hải Dương 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế nước này năm 2014.

Khi đó, Việt Nam chỉ có thể đưa tàu ra từ đất liền mà không có cơ sở hậu cần trên biển. Việc tàu chạy từ bờ ra biển rồi phải quay về không phải là phương án tối ưu. Đến sau năm 2016, việc Trung Quốc phớt lờ phán quyết của Tòa PCA 2016 càng củng cố ý định này của Việt Nam. Bởi vì nó cho thấy đối với một nước nhỏ khi đối diện với nước lớn như Trung Quốc, luật pháp quốc tế không có khả năng tác động lên nước lớn như Trung Quốc. Nước nhỏ phải tăng cường năng lực quân sự và bán quân sự thì mới kiểm soát tốt hơn những gì mình đang có. Ở thời điểm hiện nay, để bảo vệ lợi ích tại Biển Đông, Việt Nam trông cậy nhiều hơn vào sức mạnh cứng trên biển, kết hợp với các yếu tố khác là ngoại giao và luật pháp quốc tế. Ông phân tích cụ thể về chiến lược này của Việt Nam:

“Đó là sự phối hợp ba yếu tố là ngoại giao, quân sự và luật pháp quốc tế. Trong từng giai đoạn cụ thể và từng trường hợp cụ thể thì có những yếu tố sẽ được nhấn mạnh hơn. Ví dụ đối với vấn đề Vịnh Bắc Bộ gần đây thì yếu tố luật pháp quốc tế được sử dụng nhiều hơn. Nhưng đối với Trường Sa thì hiện nay dùng sức mạnh cứng nhiều hơn. Tùy thời điểm và địa điểm mà đưa quân bài nào ra nhiều hơn. Thực ra một nước nhỏ thì không thể chỉ dùng sức mạnh quân sự để đối phó mà vẫn phải có luật pháp và thể chế quốc tế đằng sau. Đó là ba yếu tố song hành.”

Có thể Việt Nam hiện nay đang nghiêng về quân bài tăng cường sức mạnh thực tiễn hơn, nhưng theo ông Harrison Pretat, trong tương lai, các cuộc chiến pháp lý và nỗ lực tập hợp sự ủng hộ của quốc tế sẽ tiếp tục đóng vai trò chính trong việc giải quyết các tranh chấp này.

Nâng cao năng lực hậu cần trên biển

Từ tháng Sáu năm 2024 đến nay, Việt Nam tập trung bồi đắp đảo nhân tạo ở những khu vực nào? Những khu vực này được sử dụng cho mục đích gì?

Các khu vực mới được bồi đắp gần đây bao gồm 58 ha mới tại bãi Thuyền Chài (Barque Canada Reef), 48 ha mới tại bãi đá Lớn (Discovery Great Reef), 51 ha mới tại đá Lát (Ladd Reef), và 49 ha mới tại đá Nam (South Reef).

Đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca (Sand Cay) hiện có vẻ như đã ít nhiều hoàn thành bồi đắp. Ở phía bên kia của nhóm đảo này, hoạt động bồi đắp mới đã bắt đầu thực hiện ở đầu phía bắc của đá Núi Le (Cornwallis South Reef). Điều này giúp mở rộng mấy cấu trúc lô cốt đã có từ trước.

Những nỗ lực bồi đắp đảo nhân tạo của Việt Nam ở Trường Sa không chỉ tập trung vào việc mở rộng diện tích đất của các đảo mà còn nâng cao năng lực của lực lượng quân sự và hàng hải của mình tại đây.

Đảo nhân tạo được bồi đắp để dùng cho nhiều mục đích khác nhau. Theo ghi nhân của AMTI, trong số 10 thực thể địa lý mà Việt Nam bồi đắp, mở rộng khoảng 1343 ha đất ở Trường Sa cho đến nay, có đến một phần ba (khoảng 437 ha) được dùng để xây dựng 8 bến cảng mới trên 8 đảo tiền tiêu của mình. Đó là các bãi Thuyền Chài, đá Lát, đá Trường Sa Đông (Central Reef), đảo Nam Yết, đá Phan Vinh (Pearson Reef), đảo Sơn Ca, đá Nam và đá Tiên Nữ (Tennent Reef).

Điều đó cho thấy Việt Nam thực sự quan tâm tăng cường năng lực hậu cần trên biển. Phó giám đốc AMTI Harrison Pretat cho rằng các cảng mới bổ sung sẽ cho phép tàu Việt Nam hoạt động tại quần đảo Trường Sa trong thời gian dài hơn nhiều mà không cần quay trở lại bờ, giúp Hà Nội giám sát tốt hơn các tiền đồn và hoạt động dầu khí ngoài khơi của mình.

Từ góc độ quân sự, nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Phương cho biết các cảng Việt Nam đang xây dựng ở Trường Sa có chức năng phá cái thế bao vây theo hình tam giác của ba căn cứ quân sự khổng lồ mà Trung Quốc đã xây dựng ở đá Subi, Vành Khăn và Chữ Thập. Ba căn cứ này bọc các đảo và đá mà Việt Nam đóng quân vào giữa. Trước năm 2021, Việt Nam chỉ có đảo có bến cảng là đảo Sinh Tồn (Sin Cowe Island), đảo Song Tử Tây (Southwest Cay), đảo Trường Sa (Spratly Island) và đá Tây (West Reef). Nếu xảy ra xung đột, các căn cứ này sẽ ở vào thế kẹt nếu không có đủ năng lực phòng thủ. Việc xây mới 8 cảng trên các căn cứ có sẵn ở Trường Sa giúp Việt Nam tăng cường khả năng răn đe trước thế bao vây của Trung Quốc.

Về không quân, cho đến gần đây, Việt Nam chỉ có một đường băng tại đảo Trường Sa. Đường băng này quá ngắn, hầu hết các máy bay quân sự không thể hạ cánh.

Khó khăn này đã kết thúc khi hiện nay, Việt Nam đã hoàn thành một đường băng mới, dài 2438 mét tại bãi Thuyền Chài vào mùa thu năm ngoái. Ngoài ra, theo AMTI, Việt Nam có thể đang xây dựng thêm một số đường băng nữa tại các khu đất đang bồi đắp khác như đá Lát, đá Phan Vinh và đá Tiên Nữ. ông Harrison Pretat cho RFA biết hiện đây vẫn là đường băng duy nhất được ghi nhận trong chiến dịch bồi đắp đảo nhân tạo này. Theo ông Nguyễn Thế Phương, đường băng này có thể liên quan tới việc Việt Nam mua máy ba vận tải C-130 của Mỹ. Đường băng lớn giúp các máy bay vận tải cỡ lớn và máy bay chiến đấu hạ cánh dễ dàng.