Gần đây có hai sự kiện quốc tế làm cho người dân Việt Nam thảo luận sôi nổi về những kỹ thuật quân sự mới.
Ukraine hôm một tháng Sáu, 2025, sử dụng drone công nghệ cao tiêu diệt một phần ba lực lượng máy bay ném bom chiến lược của không quân Nga. Cuộc không kích của Israel vào Iran bắt đầu từ hôm 13 tháng Sáu, 2025, sử dụng drone công nghệ cao để tiêu diệt hàng loạt các tướng lĩnh của Iran.
Tại sao người dân Việt Nam thảo luận nhiều trên mạng xã hội về các công nghệ quân sự mới này?
Trao đổi với RFA, Giáo sư Zachary Abuza ở Đại học Chiến tranh Quốc gia Hoa Kỳ, cho biết nhiều sĩ quan Quân đội Việt Nam đã theo dõi cuộc chiến ở Ukraine với sự bàng hoàng lo lắng. Họ đã thấy tên lửa chống tăng, drone tấn công tự sát và máy bay không người lái hiệu quả như thế nào khi tấn công xe tăng và pháo binh của Nga. Điều đó khiến họ cảm thấy lực lượng hiện có của họ rất dễ bị tổn thương. Phần lớn học thuyết của Quân đội Nhân dân Việt Nam vẫn dựa trên học thuyết Nga/Liên Xô, tập trung rất nhiều vào xe tăng và pháo binh. Nhưng Ukraine đưa ra một số bài học rất hay về cách chiến đấu bất đối xứng với đối thủ mạnh hơn, có tuyến hậu cần tiếp tế lớn hơn nhiều.
Thế nhưng, bất chấp có những lo lắng như thế, quân đội Việt Nam vẫn mải kiếm tiền, cạnh tranh với dân trên thương trường.
Quân đội Việt Nam vẫn mải diễu binh và kiếm tiền
Trao đổi với RFA trong điều kiện ẩn danh, một chuyên gia ở Hà Nội nghiên cứu về Quân đội Việt Nam cho biết “Quân đội Việt Nam vẫn đang mải diễu binh.” Họ vừa diễu binh hôm 30 tháng Tư, lại tiếp tục chuẩn bị diễu binh ngày Hai tháng Chín. Họ xua dư luận viên lên mạng viết bài như thể cuộc chiến tranh Việt Nam tuy kết thúc từ năm 1975 đến nay vẫn đang còn tiếp tục bùng nổ trong đầu óc họ: tự hào, yêu nước, yêu cộng sản và căm thù tư bản. Truyền hình Quân đội năm 2024 dành cho những người theo dõi thời sự Việt Nam khắp thế giới một trận cười vì phát hẳn một chương trình đánh Đại học Fulbright Việt Nam là cơ sở làm “cách mạng màu” của Mỹ.
Không chỉ thích diễu binh, họ còn đang mải lao vào thương trường làm ăn, kiếm tiền, thưởng thụ nguồn lực quốc gia vô tận để cạnh tranh với doanh nghiệp tư nhân nhỏ bé. Bộ Quốc phòng Việt Nam hiện sở hữu khoảng 20 công ty, nhiều hơn tất cả các công ty trực thuộc các Bộ khác cộng lại (như Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên Môi trường…)
Trong đó, ngoại trừ một số công ty trực tiếp liên quan đến vũ khí, còn lại phần lớn các công ty này kinh doanh trong lĩnh vực bất động sản, xây dựng, xuất nhập khẩu, khai thác tài nguyên. Những công ty này sử dụng nguồn lực của quân đội, tham gia vào thị trường, cạnh tranh với các công ty tư nhân khác.
Trao đổi với RFA, Giáo sư Carl Thayer cho biết các doanh nghiệp do quân đội Việt Nam điều hành đã bao trùm mọi ngóc ngách của thị trường Việt Nam, từ máy ép thủy lực, máy tiện, kíp nổ, đồng hồ đo điện, máy biến áp, xe buýt, xe tải hạng nặng, đến giấy, hàng may sẵn, áo mưa, quạt điện, phụ tùng xe đạp và xe máy, nồi nấu dầu, bóng đèn huỳnh quang, tivi, máy ghi âm radio-cassette, máy tính. Các doanh nghiệp quân đội khác đã mạo hiểm tham gia vào các dịch vụ như xây dựng, sửa chữa tàu và máy bay, dịch vụ ngân hàng thương mại. Thậm chí, có doanh nghiệp quân đội còn điều hành khách sạn và hộp đêm. Ngoài ra, họ phát triển bất động sản và tư vấn.
Thực ra, chính phủ Việt Nam từ lâu đã nhận ra rằng việc các doanh nghiệp do quân đội làm chủ mở rộng nhanh chóng sang các hoạt động thương mại là trái ngược với tính chuyên nghiệp của quân đội. Đó là nhận xét của GS Carl Thayer. Vậy Việt Nam đã cố gắng thế nào để giải quyết vấn nạn quân đội mải kiếm tiền?
Mải kiếm tiền sẽ gây hại gì cho quân đội?
Giáo sư Zachary cho biết mặc dù một số sĩ quan quân đội Việt Nam đang nghiên cứu nhiều hơn về công nghệ quân sự hiện đại, thực tế là nhiều hoạt động của Quân đội Việt Nam vẫn tập trung vào các hoạt động làm ăn kinh tế. Ông cho biết có nhiều tập đoàn khác của Quân đội Việt Nam đem lại rất ít lợi ích quân sự mà chỉ tồn tại để kiếm lợi nhuận trên thị trường.
“Rõ ràng, nhiều tập đoàn trong số này làm giảm quá trình hiện đại hóa và chuyên nghiệp hóa quân đội. Quân đội Việt Nam tiếp tục lập luận rằng chúng phục vụ mục đích an ninh quốc gia, mặc dù lập luận này rất yếu ớt. Nếu không có gì khác, những lập luận này làm tăng ngân sách quân sự, vốn đang thấp do nhu cầu an ninh của Việt Nam và chi phí hiện đại hóa quốc phòng cao.”
Để có cái nhìn so sánh, trong trường hợp Quân đội Trung Quốc, một nước có cùng thể chế với Việt Nam, các doanh nghiệp do quân đội điều hành phát triển mạnh ở mọi cấp, bao gồm cả cấp tỉnh. Điều này khiến cho tham nhũng tràn lan trong quân đội nước này. Đó có thể là nguyên nhân góp phần vào sự thiếu chuyên nghiệp của Quân đội Trung Quốc trong trong một thời gian dài. Đó là chia sẻ của Giáo sư Carl Thayer với RFA.
Tuy nhiên, theo Giáo sư Carl Thayer, việc quân đội Trung Quốc còn sở hữu doanh nghiệp kiếm tiền đã là chuyện quá khứ từ lâu. Còn phía Việt Nam, mặc dù nhà nước đã cố gắng thực hiện đến bốn lần cải cách rất mạnh tay nhắm vào các doanh nghiệp quân đội, các công ty này vẫn tiếp tục kiếm tiền.
Bốn đợt cải cách doanh nghiệp quân đội
Năm 2017, Tướng Lê Chiêm, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, đã nói với Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc rằng Bộ của ông đang cân nhắc việc quân đội ngừng kinh doanh. Giáo sư Carl Thayer cho biết, mặc dù có nhiều lực cản trong quân đội, sau phát biểu của Tướng Lê Chiêm, chính phủ Việt Nam đã phát động “làn sóng cải cách thứ tư”, giảm số lượng doanh nghiệp do quân đội sở hữu xuống còn mười lăm.
Vậy trước đó, Việt Nam đã tiến hành những đợt cải cách nào đối với doanh nghiệp quân đội? Theo Giáo sư Carl Thayer, đó là các đợt cải cách năm 1995 - 1996, 1998, 2007 và 2018.
Trong làn sóng cải cách đầu tiên, từ năm 1995 đến năm 1996, số lượng các doanh nghiệp do quân đội làm chủ đã giảm từ 335 công ty xuống còn 193 công ty. Đợt cải cách này dừng lại do Khủng hoảng tài chính Châu Á.
Làn sóng cải cách thứ hai nhắm vào doanh nghiệp quân đội được phát động vào tháng 5 năm 1998 với mục tiêu cải thiện hiệu quả của các doanh nghiệp này, bằng cách giải thể các công ty thua lỗ, hợp lý hóa các hoạt động thương mại, và cấm quân đội thành lập các liên doanh thương mại mới. Theo Giáo sư Carl Thayer, ở thời điểm đó, ước tính có khoảng 100.000 quân nhân chính quy được tuyển dụng làm việc cho các công ty do quân đội điều hành. Con số này tương đương khoảng một phần năm quân đội thường trực. Nói cách khác, khi đó, cứ có 5 anh lính thì chỉ bốn anh cầm súng, một anh làm công nhân.
Làn sóng cải cách thứ ba được phát động vào tháng 1 năm 2007. Khi đó, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSVN thông qua nghị quyết chỉ đạo quân đội thoái vốn khỏi tất cả các doanh nghiệp thương mại mà quân đội hiện đang sở hữu và điều hành. Vào tháng 4 năm 2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ban hành chỉ thị yêu cầu quân đội thoái vốn khỏi 113 doanh nghiệp do họ làm chủ.
Tuy nhiên, nghị quyết của hội nghị nêu rõ rằng Quân đội Nhân dân Việt Nam có thể giữ lại quyền sở hữu và quyền kiểm soát đối với các công ty liên quan trực tiếp đến quốc phòng và an ninh quốc gia.
Giáo sư Carl Thayer cho biết làn sóng cải cách thứ ba bị dừng lại do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và do sự trì hoãn của phía quân đội. Đến năm 2009, quân đội đã cổ phần hóa 32 doanh nghiệp và thoái toàn bộ vốn nhà nước khỏi mười công ty cổ phần trong khi vẫn giữ quyền sở hữu đối với 98 doanh nghiệp.
Vào tháng 6 năm 2018, Quốc hội đã khởi xướng làn sóng cải cách thứ tư đối với doanh nghiệp quân đội khi sửa đổi Luật Quốc phòng để chấm dứt quyền sở hữu của quân đội đối với các doanh nghiệp thuần túy thương mại. Luật này cố gắng tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp quân sự và dân sự để đưa chúng vào cùng một luật.
Giáo sư Zachary Abuza nhận định các nỗ lực cải cách doanh nghiệp quân đội trong quá khứ đã giúp giảm đáng kể số lượng các tập đoàn kinh tế do quân đội sở hữu. Tuy nhiên, việc này không được thực hiện triệt để. Thông qua việc bán và sáp nhập, hiện Quân đội Việt Nam còn khoảng 20 công ty, vẫn nhiều hơn số lượng công ty của tất cả các bộ khác cộng lại. Các công ty này bao gồm một số công ty xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng.
Do đâu tướng lĩnh đi làm thương nhân kiếm tiền?
Vào tháng 3 năm 1989, trong khuôn khổ cuộc đổi mới được phát động năm 1986, chính phủ (khi đó là Hội đồng Bộ trưởng) đã ban hành Chỉ thị 46 đưa các doanh nghiệp do quân đội điều hành vào cùng một vị thế pháp lý như các doanh nghiệp nhà nước theo chế độ hạch toán lãi lỗ. Các doanh nghiệp quân đội được trao quyền mở tài khoản ngân hàng ngoại tệ và liên doanh với các đối tác Việt Nam hoặc nước ngoài. Câu chuyện các vị tướng cầm súng chuyển thành thương nhân cạnh tranh với người dân trên thương trường bắt đầu từ đó. Trao đổi với RFA, Giáo sư Carl Thayer phân tích lý do sau Chỉ thị 46 năm 1989, các công ty quân đội phát triển mạnh về số lượng:
“Do các doanh nghiệp quân đội được hưởng những lợi thế to lớn về quyền sử dụng đất, lao động kỷ luật và vị trí chiến lược nên họ nhanh chóng mở rộng hoạt động kinh tế sang sản xuất thương mại. Do đó, số lượng doanh nghiệp do quân đội làm chủ tăng nhanh chóng. Đến năm 1991, lực lượng chủ lực của Quân đội Việt Nam đã chính thức đăng ký sáu mươi tập đoàn và tổng công ty, giao thầu hoạt động cho hơn hai trăm doanh nghiệp cấp cơ sở. Các đơn vị dân quân địa phương được báo cáo đã thành lập ít nhất 160 doanh nghiệp bổ sung.”
Việc Quân đội Việt Nam hôm nay vẫn tiếp tục kiếm tiền trên thương trường được bắt đầu từ giai đoạn đó. Trong số chín đơn vị xây dựng kinh tế lớn của Quân đội Nhân dân Việt Nam được chuyển đổi thành pháp nhân công ty, theo GS Carl Thayer, có 4 công ty lớn đã đặc biệt thành công chiếm lĩnh thị trường mới được mở ra là Tổng công ty xây dựng Trường Sơn (Quân đoàn 12), Tổng công ty Tây Nguyên (Quân đoàn 15), Tổng công ty xây dựng và lắp ráp Thành An (Quân đoàn 11) và Tổng công ty dịch vụ bay. Các doanh nghiệp quân đội tiếp tục làm các dự án bất động sản, khách sạn, đường sá, cầu cống và cảng biển, sản xuất cà phê, chè và cao su; sản xuất xi măng và nhựa đường; khai thác khoáng sản như than, thiếc và đá quý; đánh bắt và chế biến hải sản.
Mặc dù nhà nước Việt Nam đã nỗ lực cải cách doanh nghiệp quân đội, dường như họ chỉ thành công về số lượng. Số lượng doanh nghiệp quân đội giảm từ 335 công ty trong đợt cải cách 1995 xuống còn 15 công ty, sau 30 năm, tính đến tháng 6 năm 2025. Xét về hình thức, tất cả các công ty này đều có hai chức năng kinh doanh kiếm tiền trên thương trường và chức năng quốc phòng. Điều này giúp xóa đi hình ảnh “doanh nghiệp thương mại thuần túy” của họ.
Tuy nhiên, trao đổi với RFA trong điều kiện ẩn danh, một nhà nghiên cứu về quân đội Việt Nam cho biết những công ty như Thành An có cái tên rất “quân sự” là “Binh đoàn 11” hay Tổng Công ty 15, 16 đều nổi tiếng trên thương trường Việt Nam. Thành An là công ty bất động sản nổi tiếng, có mặt ở nhiều dự án lớn. Thậm chí công ty này còn kinh doanh xuất khẩu lao động, tức là tuyển các cháu thanh niên đưa đi lao động ở Nhật, Hàn. Ngoài ra, Binh đoàn 15 hay “Tổng Công ty 15” được gán cho “sứ mệnh” rất kêu là “xây dựng thế trận an ninh, quốc phòng ở khu vực biên giới phía bắc Tây Nguyên”, nhưng cái gọi là “binh đoàn” này có đến chục công ty con, kinh doanh bệnh viện, trường dạy nghề, hàng loạt nhà máy, trại sản xuất, khách sạn, dùng đất đai quốc gia khai thác mủ cao su, có chi nhánh ở cả Việt Nam. Binh đoàn 16 được cấp cho sứ mệnh “xây dựng thế trận an ninh, quốc phòng ở khu vực biên giới phía nam Tây Nguyên”, cũng có hàng loạt công ty con tương tự.
Câu hỏi cần đặt ra là quân đội còn tiếp tục làm ăn kiếm tiền dưới cái nhãn hiệu “xây dựng thế trận an ninh quốc phòng” sẽ còn ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc gia ra sao, khi mà họ sử dụng nguồn lực quốc gia cho việc kinh doanh, cạnh tranh trực tiếp với doanh nghiệp dân doanh. Giáo sư Carl Thayer trao đổi với RFA:
“Quân đội có quyền tiếp cận một nguồn lao động lớn. Quân đội sở hữu những vùng đất rộng lớn không được sử dụng cho mục đích nông nghiệp hoặc thương mại. Doanh nghiệp quân đội gần như độc quyền phần lớn và có nguồn lực to lớn về các nguồn lực ngành xây dựng, bao gồm xe tải và các thiết bị khác. Các doanh nghiệp quân đội được đối xử đặc biệt trong việc sắp xếp các khoản vay ngân hàng. Nói cách khác, các doanh nghiệp do quân đội sở hữu đã kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp dân sự.”