Tổng thống Trump tuyên bố áp thuế 20% cho hàng hoá Việt Nam vào Mỹ và 40% đối với hàng hóa “quá cảnh” qua Việt Nam để xuất khẩu vào Mỹ, một biện pháp rõ ràng nhắm vào hàng hóa Trung Quốc. Đổi lại, Việt Nam mở cửa thị trường hoàn toàn cho hàng hóa Mỹ với mức thuế 0%. Kết quả này được ông Trump công bố sau cuộc điện đàm với Tổng Bí thư Tô Lâm.
Dễ thấy rằng chính sách thuế của Tổng thống Trump nhắm đến mục đích định hình lại quan hệ thương mại toàn cầu, trong đó có quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam, Việt Nam và Trung Quốc, Trung Quốc và Mỹ. Việt Nam sẽ được lợi gì và hại gì? Và liệu nước này có ứng phó được với cái hại và phát huy được cái lợi từ chiến lược mới của Hoa Kỳ hay không?
Việt Nam nhận gì từ mức chênh lệch thuế Mỹ áp lên Trung Quốc?
Mỹ đã áp đặt nhiều lớp thuế rất cao lên hàng hóa từ Trung Quốc. Các mức thuế này thay đổi liên tục, ban đầu, ở mức 10% cơ bản vào tháng Một, sau đó thêm mức thuế bổ sung 34%, nâng tổng mức thuế lên 54%. Thậm chí, một sắc lệnh hành pháp vào ngày 8 tháng Tư nâng mức thuế lên hàng hóa Trung Quốc lên 104%, và sau đó lên 145%. Đến ngày 12 tháng Năm, 2025, các quan chức Trung Quốc và Mỹ tạm thời đạt được thỏa thuận giảm 115% thuế đối ứng, đưa mức thuế lên hàng Trung Quốc xuống 56% trong 90 ngày. Ngoài ra, một số mức thuế cao vẫn được áp lên một số hàng hoá riêng, tạo thành nhiều “lớp thuế” phức tạp.
Việc giảm mức thuế đe dọa ban đầu từ 46% xuống 20% cho Việt Nam cho thấy Mỹ có một cách tiếp cận đa chiều hơn với Việt Nam so với Trung Quốc. Trao đổi với RFA trong điều kiện ẩn danh, một nhà nghiên cứu ở Hà Nội nhận xét:
“Điều này không chỉ đơn thuần nhằm giảm thâm hụt thương mại Việt Mỹ. Việc giảm thuế cho Việt Nam và duy trì thuế cao với Trung Quốc đã khôi phục lợi thế về thuế quan mà Việt Nam từng có so với Trung Quốc trong cuộc chiến thương mại đầu tiên dưới thời Trump ở nhiệm kỳ một.
Điều này củng cố vị thế của Việt Nam như một “điểm đến thay thế” trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Có thể nói phía Mỹ đã tính toán kỹ lưỡng mức thuế 20% đối với Việt Nam, đủ để Việt Nam “chấp nhận” mà không làm tổn hại quá lớn đến khả năng cạnh tranh của nước này, đồng thời vẫn duy trì áp lực lên Trung Quốc. Rõ ràng mục đích của Mỹ vẫn là thúc đẩy dịch chuyển sản xuất khỏi Trung Quốc.”
Thế nhưng, mặc dù Mỹ áp thuế cao lên hàng hoá từ Trung Quốc hơn Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác có thể giúp chuyển dịch sản xuất từ Trung Quốc sang khu vực này, nhưng cũng có thể gây ra hậu quả không nhỏ.
Kể từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đầu tiên vào năm 2018, khu vực Đông Nam Á trở thành điểm đến cho các công ty tìm cách đa dạng hóa chuỗi cung ứng, tránh lệ thuộc vào Trung Quốc. Điều này đã dẫn đến dòng vốn đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc chảy vào ASEAN tăng cao. Để né tránh trừng phạt thuế quan của Mỹ, các doanh nghiệp Trung Quốc xây dựng nhiều nhà máy sản xuất trên khắp Đông Nam Á, tăng cường xuất khẩu qua các kênh thay thế.
Hậu quả là Đông Nam Á đối mặt với đòn thuế quan lớn từ Mỹ. Một số ngành xuất nội địa của Đông Nam Á có nguy cơ “chết chùm” cùng với các doanh nghiệp Trung Quốc quá cảnh qua khu vực này để vào Mỹ. Điển hình là ngành pin năng lượng mặt trời từ Đông Nam Á đã bị Mỹ áp thuế lên tới mức không tưởng là 814%. Tuy nhiên, đó chưa phải là câu chuyện cuối cùng. Một nhà nghiên cứu ở Hà Nội cho biết thêm một vấn nạn khác, song hành với chính sách thuế của Tổng thống Trump:
“Trung Quốc tăng cường xuất khẩu sang ASEAN, trong đó có Việt Nam, đã tạo ra áp lực cạnh tranh lên các nhà sản xuất nội địa. Nó khiến nhà công ty nhỏ sản xuất hàng tiêu dùng của Việt Nam không lớn nổi hoặc phá sản. Như vậy, các doanh nghiệp sản xuất Việt Nam, cũng như một số nước Đông Nam Á khác, đang ở trong tình thế “kẹp giữa” hai siêu cường. Khi cố gắng thu hút đầu tư nước ngoài, họ phải đối mặt với trừng phạt của Mỹ vì hàng hoá quá cảnh của Trung Quốc và bị Trung Quốc chèn ép ngày trên thị trường nội địa. Nó làm cho chính sách công nghiệp của Việt Nam và nhiều nước trong khu vực lâm vào thế tiến thoái lưỡng nan.”
Thực thi thuế “quá cảnh” 40% bằng cách nào?
Mỹ đánh thuế Trung Quốc cao hơn Việt Nam thì Việt Nam được lợi. Câu chuyện không đơn giản như vậy. Trung Quốc sẽ đi vòng qua Việt Nam để né thuế. Mỹ đánh thuế hàng quá cảnh lên 40%. Như vậy có giúp ngăn chặn hàng Trung Quốc quá cảnh không? Câu chuyện cũng không đơn giản như thế. Việc thực thi mức thuế quá cảnh 40% cũng tạo ra một số rủi ro cho Việt Nam.
Rủi ro lớn nhất định nghĩa “hàng hoá quá cảnh” vốn không rõ ràng và khó áp dụng trong thực tế.
Một điều dễ thấy là có những trường hợp quá cảnh là gian lận rõ ràng. Trung Quốc chỉ đơn giản là thay đổi nhãn mác tại Việt Nam để xuất tiếp đi Mỹ. Nhưng Mỹ sẽ đối xử thế nào với quá trình chuyển đổi “đáng kể” và hợp pháp tại Việt Nam thành một sản phẩm mới?
Câu hỏi đặt ra là làm cách nào xác định việc né tránh thuế thực sự xảy ra với từng món hàng cụ thể để áp thuế 40%.
Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp Việt Nam, do người Việt Nam làm chủ, có hàm lượng nội địa thấp, sử dụng nhiều nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, ở đây chủ yếu từ Trung Quốc.
Roland Rajah, Giám đốc Trung tâm Phát triển Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, một trung tâm nghiên cứu chính sách chuyên trách thuộc Viện Lowy, tính toán rằng nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc để phục vụ sản xuất ở Việt Nam chiếm trung bình khoảng 28%. Tỷ lệ này sẽ khác nhau tùy theo sản phẩm.
Như vậy, nếu Hoa Kỳ áp dụng định nghĩa “quá cảnh” quá rộng và cứng nhắc, nó có thể gây thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam có chuỗi cung ứng liên quan đến Trung Quốc.
Các doanh nghiệp Việt Nam này sẽ không biết liệu họ có bị áp mức thuế 40% hay không. Trao đổi với RFA, hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng rất khó để làm rõ khái niệm “quá cảnh” bằng con số cụ thể, cho nên sự thiếu rõ ràng này cũng tạo ra một môi trường kinh doanh không chắc chắn, có thể làm nản lòng các nhà đầu tư.
Rủi ro từ Trung Quốc
“Trung Quốc trả đũa” là rủi ro hầu hết các nhà quan sát đều nhìn thấy và theo dõi sâu sát. Bộ Thương mại Trung Quốc tuyên bố đang xem xét thỏa thuận Việt Mỹ này và có thể trả đũa nếu lợi ích của Trung Quốc bị tổn hại. Câu hỏi cần đặt ra là nếu Trung Quốc trả đũa, họ có thể sử dụng những biện pháp nào? Điều đó có khả năng kích hoạt một vòng xung đột thương mại mới giữa Mỹ và Trung Quốc hay không? Nếu điều này xảy ra, nó có thể tác động thế nào tới Việt Nam? Một nhà nghiên cứu ở Việt Nam nhận xét với RFA:
“Từ trước tới nay, Trung Quốc đã nhiều lần các biện pháp cưỡng bách kinh tế phi chính thức lên nhiều nước. Các biện pháp này thường không dựa trên luật pháp hiện hành nên họ có thể im lặng hoặc phủ nhận khi bị hỏi. Các hình thức trả đũa này rất đa dạng và khó lường. Chẳng hạn, hoá giải thuế quan bằng cách thao túng tiền tệ, rồi cấm vận thương mại phi chính thức, rồi áp lực ngoại giao, tăng cường giám sát hải quan, hạn chế đầu tư. Họ có thể trả đũa nhiều cách, không gây ồn ào nhưng thấm khá đau.”
Ai cũng biết Việt Nam phụ thuộc vào thị trường Mỹ cho đầu ra (xuất khẩu) và phụ thuộc vào Trung Quốc cho đầu vào (nguyên liệu và máy móc sản xuất). Điều này đòi hỏi Việt Nam phải có một chiến lược đối ngoại và kinh tế khéo léo để vừa tận dụng cơ hội, vừa giảm thiểu rủi ro từ sự “phụ thuộc lẫn nhau” phức tạp này.
Ngoài ra, quan trọng hơn, về mặt dài hạn, Trung Quốc có thể trả đũa, nhưng sản xuất có thực sự dịch chuyển sang Việt Nam?
Câu trả lời là chưa chắc, theo Tiến sỹ Nguyễn Huy Vũ từ Na Uy. Trao đổi với RFA, ông cho rằng cần nhìn bàn cờ rộng hơn, không chỉ so sánh mức thuế Mỹ áp lên Việt Nam với Trung Quốc và các nước châu Á xung quanh mà cần nhìn sang Nam Mỹ. Vì sao? Vì Mỹ cũng đang nhập khẩu từ Nam Mỹ cùng một chủng loại hàng hoá với Việt Nam: nông sản. Vậy Mỹ áp thuế lên các nước Nam Mỹ bao nhiêu? Chỉ bằng một nửa Việt Nam, tức 10%. Như vậy, hàng hoá Việt Nam sẽ đắt hơn hàng hoá từ Nam Mỹ, người tiêu dùng Mỹ sẽ chọn hàng hoá rẻ hơn.
Ngoài ra, mức thuế cho hàng Trung Quốc “quá cảnh” là 40%, thấp hơn 15% so với mức thuế 55% Tổng thống Trump áp lên Trung Quốc theo thoả thuận Mỹ Trung đạt được hồi tháng 5.
Mức chênh lệch 15% này có đủ lớn để các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển sản xuất sang Việt Nam, trở thành công ty hợp pháp và sản xuất chính thức tại Việt Nam không? Theo TS Nguyễn Huy Vũ thì chưa chắc. Vì mức chênh lệch này không đủ lớn để đầu tư chuỗi cung ứng và sản xuất nội địa tại Việt Nam. Tổ chức sản xuất tại Việt Nam với chuỗi cung ứng nội địa để không bị coi là hàng “quá cảnh” đòi hỏi mức đầu tư rất lớn. Mức đầu tư này có thể lớn hơn và rủi ro hơn chấp nhận mức chênh lệch thuế quan 15% rất nhiều.
Liệu có lợi ích tiềm năng nào cho Việt Nam?
Mức chênh lệch thuế quan giữa Việt Nam và Trung Quốc có tiềm năng khôi phục lợi thế về thuế mà Việt Nam từng được hưởng so với Trung Quốc sau cuộc chiến thương mại đầu tiên bùng nổ năm 2018. Điều này có khả năng thúc đẩy xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng sang Việt Nam. Như vậy có thể nói mức thuế 20% sẽ là một mức thuế “bình thường mới” trong quan hệ thương mại Mỹ-Việt dưới thời Tổng thống Trump.
Dòng vốn và dự án mới đang đổ vào Việt Nam, đặc biệt là trong ngành công nghiệp phụ trợ cho thấy doanh nghiệp Trung Quốc đã cố gắng đón đầu xu hướng này từ trước.
Nhiều doanh nghiệp xe hơi Trung Quốc như Haima, Great Wall Motors, Hongqi, FAW, Chery đã tìm cách gia nhập hoặc mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Từ đầu năm 2023, gã khổng lồ xe điện BYD của Trung Quốc công bố kế hoạch xây dựng nhà máy sản xuất phụ tùng xe hơi tại Việt Nam để đa dạng hóa chuỗi cung ứng.
Việt Nam đối mặt với một câu chuyện cũ: nền tảng công nghệ lạc hậu. Trong khi Trung Quốc hơn mười năm qua đã “vươn mình” vào “kỷ nguyên mới”, làm chủ công nghệ tiên tiến, Việt Nam vẫn dừng lại ở giai đoạn lắp ráp công đoạn cuối. Trao đổi với RFA, Tiến sỹ Kinh tế Nguyễn Huy Vũ khẳng định cơ hội và cũng là nghĩa vụ lớn nhất mà chính quyền Việt Nam phải làm không chỉ là thu hút FDI mà còn là tận dụng dòng vốn này để thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ, nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ. Không làm như vậy thì không có cách nào khác để từng bước tiến lên các phân khúc giá trị cao hơn trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Một chuyên gia khác từ Hà Nội cũng có cùng chung nhận định với TS Nguyễn Huy Vũ:
“Hiện tại, việc dịch chuyển sản xuất sang Việt Nam chỉ là sự dịch chuyển của các công đoạn lắp ráp cuối cùng, chứ không phải toàn bộ chuỗi giá trị. Điều này giúp Việt Nam tăng kim ngạch xuất khẩu nhưng có thể không thực sự nâng cao năng lực công nghiệp nội địa.
Việt Nam liệu có nắm bắt được cơ hội này không? Không. Việt Nam không thể làm được, nếu không có những con người mới. Cuộc cải cách của ông Tô Lâm để chỉnh sửa cơ cấu bộ máy, chứ con người của bộ máy đó vẫn như cũ. Làm sao có thể làm được điều gì mới với những con người cũ kỹ đó?”