Hóa Chất Dùng Trong Nông Nghiệp Ở Việt Nam

Từ khi có chính sách đổi mới năm 1986, lượng hóa chất xử dụng trong nông nghiệp ở Việt Nam ngày càng tăng. Các loại hóa chất dùng cho nông nghiệp gồm: 1- phân bón chứa nitrogen, potassium, phosphor, calcium dưới dạng sulfate, phosphate, hay carbonate; 2- và các loại thuốc trừ sâu rầy, diệt cỏ dại, trừ nấm móc v.v… có tên chung là "hóa chất bảo vệ thực vật"...

Bấm vào đây để nghe tiết mục này

Rightclick to download this audio

Các hóa chất nầy thường xuất hiện dưới dạng hợp chất hữu cơ chứa chlor, phosphate, hay carbonate. Tuyệt đại đa số các hóa chất vừa kể rất độc hại. Chúng đã làm ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng lên con người gần 20 năm qua. Những vụ nhiễm độc được thường xuyên đăng tải trên báo chí trong nước cho thấy tình hình hiện rất nghiêm trọng. Tạp chí KHMT kỳ này sẽ bàn về vấn đề sử dụng hóa chất trong nông nghiệp ở Việt Nam.

Nguyễn An: Kính chào Tiến sĩ MTT. Mở đầu câu chuyện, hôm nay, xin Tiến sĩ mô tả khái quát về tình hình sử dụng hóa chất trong nông nghiệp ở Việt Nam.

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Theo báo cáo mới nhất ngày 24/2/2003 cùa Viện Nghiên cứu Chulabhorn (Thai Lan) và Sở KHCNMT Hà nội dưới tựa đề "Những vấn đề độc học môi trường do xử dụng hoá chất ở Việt Nam" (Environmental Toxicological Problems Resulting from Chemical Uses in Viet Nam) cho thấy mỗi năm Việt Nam xử dụng đến 9 triệu tấn hóa chất thuộc 500 loại khác nhau.

Tuy nhiên chỉ có 70 - 75% các loại hóa chất nầy được xác định với tên chính xác, còn lại là những hóa chất không rõ xuất xứ. Đối với các hóa chất bảo vệ thực vật, có trên 200 chủng loại dưới 700 nhản hiệu khác nhau, và có vô số hóa chất "không tên" vẫn được lưu hành rộng rãi trong thị trường. Đây là báo cáo được hai bên thực hiện từ năm 1998 đến nay dưới sự bảo trợ của Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP).

Nguyễn An: Còn chi tiết về việc xử dụng các hoá chất trên thì sao? Tiến sĩ có thể nêu lên vài thí dụ cụ thể của vấn đề không?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Cũng theo báo cáo trên, Trong lĩnh vực nông nghiệp, lượng hóa chất bảo vệ thực vật được xử dụng ở Việt Nam lên tới 220.000 tấn trong năm 1998, trong đó phần lớn là thuốc trừ sâu và còn lại là trừ cỏ, trừ bịnh. Nhóm hữu cơ phosphate chiếm khỏang 56%, phổ biến nhất là Wofatox và Monitor, một loại thuốc độc hại cho môi trường và con người. Thậm chí ở một số tỉnh như Hòa bình, Vĩnh phúc, Bắc thái, Tuyên quang, Yên bái thuốc trên còn được phun cho cây trà và thuốc lá.

Theo khuyến cáo của Cơ quan Lương nông Quốc tế (FAO) thì trên thị trường có hơn 30% hóa chất bảo vệ thực vật không đáp ứng được tiêu chuẩn yêu cầu và chứa nhiều tạp chất độc hại cũng như có rất nhiều hóa chất đã bị cấm xử dụng trên thế giới. Việt Nam là một thành viên đã phê chuẩn danh sách hoá chất độc hại trong đó có DDT, Furan, và PCB thuộc nhóm "hóa chất dơ bẩn" ( các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân hủy) đã được ký kết qua Công ước Stockholm (Thụy điển) vào tháng 7/ 2002. Việt Nam cũng vừa được UNDP hổ trợ kỹ thuật và tài chính trị giá US$500.000 để giúp thực hiện Công ước Stockholm nầy nhằm ngăn chặn ảnh hưởng của các loại hóa chất độc hại đối với môi trường và sức khỏe của con người. Việt Nam cũng là thành viên trong Hiệp ước Rottedam (Rottedam Convention-Hòa lan) về sản xuất và trao đổi các hoá chất độc hại trên quốc tế. Bộ Y tế Việt Nam cũng có niêm yết các loại hóa chất bị cấm xử dụng trong nông nghiệp và gia đình.

Nguyễn An: Như vậy, Việt Nam đã có đầy đủ thông tin vể những nguy cơ của các hoá chất độc hại trên. Tuy nhiên những thông tin đó có đến tai người xử dụng là nông dân hay không? Và nếu có thì cung cách hành xử của nông dân như thế nào?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Hầu như đa số nông dân không được chỉ dẫn về các nguy cơ độc hại của hóa chất bảo vệ thực vật, hay nếu có thì chỉ giới hạn trong những thông tin tổng quát mà thôi. Tuy nhiên, mặc dù có những điều cấm kỵ trên, nông dân vẫn tiếp tục xử dụng bừa bãi tất cả mọi hóa chất mà họ có trong tay. Thậm chí những loại hóa chất nhập cảng lậu bị tịch thu cũng được "cán bộ quản lý" tiêu lòn và tung ra thị trường nông nghiệp.

Ở Việt Nam, thuốc bảo vệ thực vật được xử dụng riêng rẽ hoặc dưới dạng hỗn hợp (cocktail) để tăng cường độ độc chất của thuốc trước sức đề kháng của sâu rầy.. . DDT được coi như là tác nhân chính trong nhiều hỗn hợp trên. Thí dụ: hỗn hợp DDT, Thiodan (hay Endosulfan) và Folidol (Methyl Parathion) thường hay được pha chế để trừ sâu cuốn lá và các côn trùng khác. Ngoài việc dùng hóa chất cho nông nghiệp, nông dân còn xử dụng các thuốc bảo vệ thực vật trong việc săn bắt tôm cá nữa(!)

Nguyễn An: Xin Tiến sĩ liệt kê cho thính giả Việt Nam biết một số tên hoá chất bảo vệ thực vật quen thuộc đã được áp dụng nơi đây.

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Sau đây là danh sách một số hóa chất độc hại được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam dưới các tên hoá chất hoặc tên thương mại như sau: DDT, Folodol, Mevinphos, Dichlovos, Carbofuran, Methamidophos, Endosulfan (hay Thiodan), Diazinon, Glycosate (hay 2,4-D), Diazonin, Chlopyrifos, Zinc Phosphide, Paraquat, Aluminum Phosphide. Nguyễn An: Từ danh sách trên, nguy cơ ô nhiễm và hậu quả trước mắt như thế nào thưa Tiến sĩ?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Nguy cơ ô nhiễm môi trường sống ở Việt Nam cho đến ngày nay không còn là một sự kiện cần phải bàn cãi. Đây là một nguy cơ thực sự mà Việt Nam cần phải đối mặt và giải quyết tức thời. Trước việc các sản phẩm thực phẩm của Việt Nam xuất cảng ra ngoại quốc tiếp tục bị trả hàng loạt vì có dung lượng hoá chất cao hơn quy định, và sản phẩm tiêu dùng trong nội địa bị nhiễm độc thường xuyên, viễn ảnh một nền kinh tế què quặc trong tương lai chắc chắn sẽ phải xảy ra mà thôi. Vì vậy, Việt Nam cần phải có cái nhìn chính xác hơn về việc xử dụng hóa chất trong nông nghiệp.

Nguyễn An: Còn hậu quả lâu dài thì sao?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Việc áp dụng hóa chất bảo vệ thực vật không đúng cách (đúng liều lượng thích hợp), không đúng đối tượng (sâu rầy ...), và không đúng thời gian là ba yếu tố làm cho:

• Môi trường thoái hóa nhanh; • Hiệu quả kinh tế trong sản xuất thấp; • Và sức khoẻ của nông dân bị ảnh hưởng vì không có biện pháp phòng bị an tòan khi tiếp cận với hoá chất. • Và sau cùng, người tiêu thụ bị tiếp nhiễm qua các nông phẩm trên.

Nguyễn An: Xin Tiến sĩ đan cử ra đây một thí dụ cụ thể về cung cách xử dụng hóa chất không đúng phương pháp, lấy việc trồng lúa làm thí dụ chẳng hạn.

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Chúng tôi đan cử ra đây một thí dụ trong việc trồng lúa. Nông dân thường có thói quen phun xịt đồng ruộng trong tháng đầu tiên sau khi gieo mạ. Điều nầy chẳng những không cần thiết mà ngược lại việc làm nầy tiêu diệt các loại côn trùng "bạn" có khả năng diệt trừ sâu rầy. Thêm nữa, việc phun xịt sớm chỉ tiêu diệt được sâu rầy trưởng thành nhưng không diệt được các trứng của chúng.

Theo ước tính Việt Nam đã xử dụng 42% trên tổng số thuốc bảo vệ thực vật để tiêu diệt sâu cuốn lá, nhưng nghiên cứu đã cho thấy rằng cây lúa dù mất đi 50% lá vẫn giữ nguyên năng suất lúc ban đầu. Viện Đại học Cần thơ và IRRI (Philippines) đã chứng minh từ năm 1995 rằng việc xịt thuốc trừ sâu cuốn lá là điều không cần thiết nữa. Thêm nữa, nếu kể chi phí y tế của nông dân vào việc sản xuất thì việc xử dụng hoá chất bảo vệ thực vật là một việc làm không hiệu quả kinh tế.

Vì các lý do trên, những quốc gia sản xuất nông nghiệp trên thế giới đều có khuynh hướng giảm thiểu tối đa việc dùng hóa chất.

Nguyễn An: Còn kỹ nghệ rau xanh thì sao?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Việc xử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong kỹ nghệ rau đậu rất cao so với việc trồng lúa ở Việt Nam. Theo Cơ quan Lương nông quốc tế (FAO), một mẫu lúa chỉ cần 1 - 2 lít thuốc, trong lúc đó một mẫu đất trồng hoa màu cần đến 72 lít. FAO khuyến cáo là nên kiểm soát sâu rầy bằng sinh vật hơn là dùng liều lượng thuốc mạnh hơn khi sức đề kháng của sâu rầy lên cao.

Tại Việt Nam, sở dĩ mức nhiễm độc hóa chất ở thực phẩm cao là vì: • Liều lượng xử dụng quá nhiều và không đúng cách; • Khoảng thời gian thu hoạch và chuyển tải ra thị trường quá ngắn; • Thực phẩm thu hoạch không được tẩy rữa kỹ lưỡng trước khi đưa ra thị trường.

Nguyễn An: Tiến sĩ có đề nghị gì cho việc xử dụng hóa chất ở Việt Nam hay không?

Tiến sĩ Mai Thanh Truyết: Khoa học đã chứng minh một cách rõ ràng là các loại thuốc bảo vệ thực vật dù dưới dạng hữu cơ chứa chlor hay phosphate đều là những hóa chất độc hại làm ô nhiễm môi trường. Đó là nguyên nhân của rất nhiều "bịnh lạ" xảy ra ở Việt Nam như: dị hình dị dạng, cơ thể bị liệt, hệ thống thần kinh không hoạt động bình thường, thiếu một bộ phận trong cơ thể, ung thư, hệ thống nội tiết bị đão lộn v. v.. . Do đó, hạn chế việc xử dụng hóa chất trên cho nông nghiệp cần phải được đẩy mạnh tối đa.

Với 9 triệu tấn hóa chất độc hại tiêu thụ hàng năm không kễ một số lượng lớn ước tính hàng triệu tấn được nhập cảng lậu từ Trung Quốc và Thái Lan, Việt Nam hiện tại lại phải đối mặt với hai vấn nạn lớn: môi trường thoái hóa nhanh, và sức khỏe nông dân bị đe dọa trầm trọng. Thêm nữa, việc phát triển xã hội không cân đối, nhất là trong lãnh vực nông nghiệp, ngư nghiệp và chăn nuôi càng làm cho hệ sinh thái bị hủy diệt mau hơn.

Thiết nghĩ, Việt Nam cần phải áp dụng phương cách cân bằng phát triển xã hội và bão vệ môi trường vào điều kiện xã hội hiện tại trước vấn nạn gia tăng dân số và việc giải quyết vấn đề gia tăng lương thực cho quốc gia. Do đó, giảm thiểu tối đa việc dùng phân bón hóa học và hoá chất bảo vệ thực vật là bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe của nông dân bằng cách giảm thiểu nguy cơ bị nhiễm độc, và nhất là không lệ thuộc vào nguồn hóa chất phải nhập cảng hàng năm.

Việc giáo dục và nâng cao trình độ hiểu biết về khoa học kỹ thuật áp dụng cho việc trồng trọt của nông dân cũng là việc cần phải bắt tay ngay từ bây giờ.

Kính chào Quý thính giả của Đài ACTD.